Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§515. CHUYỆN NAM TỬ SAMBHAVA (Sambhavajātaka)[10] (J. V. 56)

Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương...

Trong lúc trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể lại câu chuyện này liên quan đến sự viên mãn của trí tuệ tối thắng. Câu chuyện này sẽ được nêu rõ chi tiết trong Chuyện đường hầm vĩ đại.[11]

***

Ngày xưa, có vị vua danh hiệu Dhanañjaya Koravya trị vì kinh đô Indapatta ở quốc độ Kuru (Câu-lâu). Bà-la-môn tên Sucīrata là tế sư cũng là quốc sư của ngài trong mọi vấn đề thế sự cũng như thánh sự. Nhà vua cai trị rất đúng pháp, thực hành bố thí cùng nhiều thiện sự khác. Một ngày kia, ngài chuẩn bị một câu hỏi liên quan việc phụng sự chân lý nên sau khi mời Bà-la-môn Sucīrata an tọa xong, cung kính đảnh lễ vị ấy, ngài đưa vấn đề ra hỏi bằng cách ngâm bốn vần kệ:

138. Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương,

Sucīrata và thống trị giang sơn,

Vì mong trẫm đạt thành cao cả,

Ngự trị khắp toàn cõi thế gian.

139. Bằng chánh chân thôi, tránh lỗi lầm,

Bởi vì tất cả đấng quân vương,

Ở trên trần thế cần theo đúng,

Bất cứ điều chân chánh thiện lương.

140. Do đó ta xa lánh lỗi lầm,

Ðời này và mãi mãi ngàn năm,

Ta cầu mong được danh vinh hiển,

Ở giữa chư thiên lẫn thế nhân.

141. Này hỡi tế sư, hãy biết rằng,

Những gì chân thiện, trẫm mong làm,

Vậy khi được hỏi, xin cho biết,

Những việc làm nào đúng thiện chân!

Lúc bấy giờ, đó là cả vấn đề cao siêu thuộc phạm vi tri kiến của một vị Phật. Ðó là vấn đề ta phải đem ra thưa trình lên đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc nếu không có Ngài thì ta phải trình với một vị Bồ-tát đang mong cầu quả vị Chánh đẳng Chánh giác kia. Còn Sucīrata không phải là một vị Bồ-tát nên không lý giải được vấn đề, vì thế ông không thể làm ra vẻ thông thái mà đành thú nhận sự bất tài của mình qua vần kệ sau:

142. Khải tấu Ðại vương, chẳng có ai,

Ngoài Vidhura ấy đủ thiên tài,

Nói điều kỳ diệu là chân thiện,

Chúa thượng hằng mong thực hiện hoài.

Nhà vua nghe lời này liền phán:

– Vậy Tôn giả hãy đi ngay!

Và vua ban một tặng vật để vị tế sư đem theo, và trong niềm mong mỏi ông lên đường, ngài ngâm vần kệ:

143. Hiền hữu đi ngay lấy phiến vàng,

Ðến Vidhura ấy, trẫm nhờ mang,

Tặng phần xứng Trí nhân ưu tú,

Dạy trẫm điều chân thiện tỏ tường.

Nói xong, ngài cho ông một phiến vàng đáng giá một trăm ngàn đồng tiền dùng để viết lời giải đáp vấn đề lên trên đó, một xe ngựa để đi đường, một đạo binh hộ tống, một tặng vật và bảo ông đi ngay.

Ông ra khỏi thành Indapatta ngay và đi đến Ba-la-nại, trước tiên đến thăm nhiều nơi chốn các bậc Hiền nhân cư ngụ, vẫn không thấy ai trong cả xứ Diêm-phù-đề có thể giải đáp vấn đề được, ông đi dần đến Ba-la-nại. Trong khi nghỉ tại đó, ông cùng vài người tùy tùng đến nhà Vidhura vào giờ ăn sáng. Sau khi nhờ thông báo việc đến yết kiến, ông được mời vào và thấy Tế sư Vidhura đang dùng điểm tâm tại nhà riêng.

***

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ bảy để giải thích sự việc này:

144. Bhāradvāja vội vã tiến lên đàng,

Ðến gặp Vidhura, thấy bạn vàng,

Ngồi tại nhà riêng, sắp sửa dự,

Bữa cơm thanh đạm sáng tinh sương.

Lúc bấy giờ, Vidhura là bạn thiếu thời của Sucīrata, đã học chung tại nhà một vị giáo sư nên sau khi cùng ăn điểm tâm với nhau, Tế sư Sucīrata an tọa và được Tế sư Vidhura hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì?

Tế sư Sucīrata nêu rõ lý do đến đây và ngâm vần kệ thứ tám:

145. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,

Dòng dõi Yudhiṭṭhila, hiện thỉnh cầu,

Hiền hữu Vidhura, cho đệ biết,

Thiện lương, chân chánh phải là đâu?

Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn này đang đeo đuổi công việc sưu tập các dòng tư tưởng của một số người, việc ấy cứ chồng chất lên cao như thể nước lụt sông Hằng dâng tràn, cho nên chẳng có thì giờ giải đáp vấn đề này được nữa. Vì thế, ông ngâm vần kệ thứ chín nêu rõ trường hợp mình:

146. Tràn ngập chủ đề quá lớn lao,

Như sông Hằng nước lụt tuôn trào,

Ta không thể nói đâu là lẽ,

Chân thiện, hiền huynh đến thỉnh cầu.

Nói vậy xong, ông lại nói thêm:

– Ta có một con trai rất thông minh, cháu ấy còn mẫn tuệ hơn ta nhiều. Cháu sẽ giải thích rõ cho hiền hữu. Vậy hãy đến gặp cháu!

Và ông ngâm vần kệ thứ mười:

147. Hiện giờ đệ có một con trai,

Tên gọi Bhadrakāra ở giữa đời,

Tìm đến chàng ngay, chàng sẽ nói,

Thiện lương, chân lý rõ cho ngài.

Nghe điều này, Tế sư Sucīrata liền rời khỏi nhà vị Tế sư Vidhura, đến tư thất của Bhadrakāra và thấy chàng đang ngồi ăn điểm tâm giữa những người thân của chàng.

***

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ mười một làm sáng tỏ vấn đề này:

148. Lúc ấy, Bhāradvāja lại vội vàng

Ðến Bhadrakāra gấp tại gia đường,

Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,

An tọa thong dong được thấy chàng.

Khi đến nơi, vị tế sư được chàng thanh niên Bhadrakāra tiếp đãi nồng hậu, mời lên sàng tọa cùng nhiều tặng vật. Vừa khi an tọa và được hỏi nguyên cớ đến thăm, ông ngâm vần kệ thứ mười hai:

149. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,

Dòng họ Yudhiṭṭhila, hiện thỉnh cầu,

Hiền điệt Bhadrakāra, cho chú biết,

Thiện lương, chân lý phải là đâu?

Lúc ấy, Bhadrakāra đáp lại:

– Thưa Tôn giả, ngay bây giờ, cháu đang có dự mưu dan díu với vợ một người khác, cho nên trí óc không được thư thái để giải đáp vấn đề. Song em trai cháu tên là Sañjaya còn thông thái hơn cháu nhiều. Xin Tôn giả đi hỏi em cháu, vấn đề của Tôn giả sẽ được giải đáp.

Chàng ngâm vần kệ để bảo ông đến đó:

150. Cháu bỏ thịt nai thật ngọt ngon,

Và đang theo đuổi tắc kè con,

Làm sao có thể nào thông hiểu,

Ðâu lẽ thiện lương với thật chơn.

151. Song có em trai, ngài phải biết,

Sañjaya tên gọi, hãy lên đường,

Kiếm em cho được, em tuyên thuyết,

Chân thiện, ngài nghe thật tỏ tường.

Ông liền đi đến nhà Sañjaya ngay và được chàng tiếp niềm nở, khi được hỏi lý do đến đây, ông nói rõ ra.

***

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc này:

152. Lúc ấy Bhāradvāja phải vội vàng

Ðến Sañjaya gấp tại gia đường,

Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,

An tọa thong dong được thấy chàng.

153. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,

Dòng dõi Yudhiṭṭhila, hiện thỉnh cầu,

Hiền điệt Sañcaya, cho chú biết,

Thiện lương, chân lý phải là đâu?

Nhưng Sañjaya cũng đang bận bày mưu tính kế, chàng liền thưa với ông:

– Thưa Tôn giả, cháu đang theo đuổi vợ người khác, và lại sắp đi xuống sông Hằng để qua sông. Sáng tối, trong lúc cháu qua sông thường phải gặp nanh vuốt tử thần, cho nên tâm trí đang rối ren, cháu không thể giải đáp vấn đề của Tôn giả được. Song em trai của cháu là Sambhava, mới lên bảy tuổi đã thông minh tài trí hơn cháu gấp cả trăm ngàn lần đấy. Em cháu sẽ nói chuyện với Tôn giả, xin hãy đi tìm để hỏi em cháu ngay!

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc:

154. Tử thần há miệng rộng đầy chông,

Sáng tối chờ con, hỡi thúc ông,

Làm thế nào con thưa với chú,

Ðâu là chân lý, với hiền lương?

155. Song có em thơ, chú biết chăng,

Sambhava tên gọi, hãy lên đường,

Tìm em, thưa chú, em nêu rõ,

Chân lý, thiện lương thật tỏ tường.

Nghe vậy, Tế sư Sucīrata nghĩ thầm: “Vấn đề này ắt là điều kỳ bí nhất trên đời. Ta chắc không ai đủ sức giải đáp cả.” Nghĩ vậy, ông ngâm hai vần kệ:

156-57. Việc lạ lùng này phật ý ta,

Chẳng hai con lớn, chẳng người cha,

Biết phương giải đáp điều mầu nhiệm.

Vậy nếu như em cũng chịu thua,

Thì phải chăng đây là cậu bé,

Biết gì về sự, lý chân ư?

Nghe vậy, Sañjaya đáp:

– Thưa Tôn giả, xin ngài đừng tưởng Sambhava chỉ là đứa trẻ thơ dại. Nếu không ai giải đáp được vấn đề của Tôn giả thì cứ đi hỏi em cháu.

Rồi chàng ngâm mười hai vần kệ nêu lên những đức tính của cậu bé này qua các ví dụ chứng minh trường hợp trên:

158. Xin ngài hỏi Sambhava,

Xin ngài chớ vội khinh là trẻ thơ,

Em đầy thông thái tài ba,

Nói ngay ngài biết đâu là thiện chân.

159. Khác nào ánh nguyệt trong ngần,

Sáng bừng vượt hẳn sao giăng đầy trời,

Ánh sao le lói mờ soi,

Chìm dần trong ánh rạng ngời Hằng Nga.

160. Cũng như bé Sambhava,

Trí tài kiệt xuất vượt xa tuổi vàng,

Hỏi Sambhava, tỏ tường,

Xin ngài chớ vội khinh thường tuổi thơ.

161. Em đầy thông thái tài ba,

Nói rành chân thiện đâu là lẽ ngay,

Tháng Tư quyến rũ đắm say,

Vượt xa tất cả tháng ngày trong năm.

162. Hoa xuân đâm lộc nảy mầm,

Màu xanh bát ngát bao trùm rừng cây,

Bé Sambhava cũng thế này,

Vượt xa tuổi trẻ, trí tài tuyệt luân.

163. Như trên đỉnh tuyết Hương Sơn,

Rừng cây bao phủ, các thần ngự an,

Có thần dược, sáng huy hoàng,

Mùi hương ngào ngạt dần lan toàn miền.

164. Như Sambhava ấu niên,

Sinh ra được phú tuệ riêng phi thường,

Hỏi em, sự lý tỏ tường,

Xin ngài chớ vội khinh thường trẻ măng.

165. Khác nào ngọn lửa hung hăng,

Cháy tràn lan khắp rừng hoang tung hoành,

Với cây cột lửa cuộn nhanh,

Không hề biết thỏa, tan tành cỏ non.

Ðể trơ một lối đen ngòm,

Bất kỳ nơi chốn lửa bùng lướt xen.

166. Khác nào một ngọn lửa thiêng,

Ðốt bằng bơ sống trong đêm tối trời,

Gặp cây gỗ quý nhất đời,

Giục cơn thèm cháy sáng ngời cao xa.

167. Cũng vầy chú bé Sambhava,

Thông minh trí tuệ vượt xa tuổi vàng,

Hỏi Sambhava, chớ coi thường,

Em thông hiểu, nói tận tường thiện chơn.

168. Trâu nhờ sức lực tráng cường,

Ngựa nhờ tốc độ phô trương giống nòi,

Bò nhờ vắt sữa tuôn vòi,

Hiền nhân, ta biết nhờ lời khôn ngoan.

169. Sambhava cũng vậy, mầm non,

Thông minh trí tuệ vượt hơn tuổi vàng,

Hỏi Sambhava, chớ coi thường,

Em thông thái, hiểu tận tường thiện chân.

Trong khi Sañjaya ca ngợi Sambhava như vậy, Tế sư Sucīrata nghĩ thầm: “Ta sẽ đặt vấn đề với cậu bé này là biết ngay.”

Ngài hỏi:

– Thế cháu bé ở đâu rồi?

Chàng liền mở cửa sổ, giơ tay chỉ và nói:

– Ngài nhìn cậu bé đằng kia, da óng như vàng ròng đang chơi cùng các trẻ khác bên đường trước cửa chính đó là em trai của cháu. Xin cứ đến hỏi, em cháu sẽ giải đáp vấn đề của ngài với mọi lý lẽ huyền diệu của bậc Giác ngộ.

Sucīrata nghe thế liền bước xuống khỏi dinh đến gần cậu bé vừa đúng lúc cậu bé đang đứng, áo quần xốc xếch vắt qua vai, hai tay đang bốc đất.

***

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ giải thích sự việc này:

170. Lúc ấy Bhāradvāja lại vội vàng,

Ðến Sambhava gấp, tại gia đường,

Ở ngoài công lộ, kìa ngay đó,

Cậu bé đùa chơi thấy rõ ràng.

Bậc Ðại sĩ vừa khi thấy vị Bà-la-môn kia đến đứng trước ngài liền hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì chăng?

Vị tế sư đáp:

– Này cháu bé, ta đã đi khắp cõi Diêm-phù-đề mà không tìm ra được người nào đủ tài trí giải đáp vấn đề ta đặt ra nên nay ta đến đây tìm cháu.

Cậu bé nghĩ thầm: “Họ bảo đây là vấn đề khắp cả cõi Diêm-phù-đề chưa giải đáp được nên vị này đến tìm ta. Còn ta đã am hiểu thông thạo rồi.” Lúc ấy, cậu thấy hổ thẹn liền vứt cục đất đang cầm trong tay, sửa sang áo quần lại đàng hoàng và bảo:

– Này Tôn giả Bà-la-môn, cứ hỏi đi, ta sẽ giải đáp cho ngài với cung cách của một bậc Giác ngộ.

Rồi với trí tuệ tối thắng, ngài mời vị kia lựa chọn đề tài để hỏi. Vị Bà-la-môn liền hỏi vấn đề qua các câu kệ:

171. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,

Dòng dõi Yudhiṭṭhila, hiện thỉnh cầu,

Hiền điệt Sambhava, cho chú biết,

Thiện lương, chân lý phải là đâu?

Vấn đề được hỏi kia quá rõ ràng đối với Sambhava như thể vầng trăng tròn giữa bầu trời cao. Ngài bảo:

– Này, hãy nghe lời ta!

Và ngài giải đáp vấn đề phụng sự chân lý qua các vần kệ:

172. Hiền hữu, ta nay sẽ bảo ngài,

Ðúng như bậc Trí phải trình bày,

Vua cần biết rõ điều chân thiện,

Song việc vua làm, ai có hay?

Trong khi ngài đứng giữa đường phố thuyết giảng chân lý với giọng ngọt như mật, âm thanh vang dội khắp thành Ba-la-nại, mỗi phía vang đến mười hai do-tuần. Nhà vua cùng các phó vương và nhiều vua khác tụ tập lại, bậc Ðại sĩ liền đứng giữa đám đông ấy, tuyên thuyết chân lý. Sau khi đã hứa giải đáp vấn đề qua vần kệ này, giờ đây ngài nêu lời giải đáp vấn đề phụng sự chân lý:

173. Ðáp lại đức vua, hãy tấu ngài:

“Ngày nay không hẳn giống ngày mai,

Thần khuyên Chúa thượng nên thông suốt,

Nắm lấy thời cơ kịp đến tay.”

174. Ta ước mong Hiền hữu tế sư,

Gợi cho vua biết cách suy tư,

Nhờ đây tâm trí ngài an lạc,

Vua phải tránh xa mọi oán thù,

Cũng chớ đi theo đường ác độc,

Như là người độn trí mê mờ.

175. Ðừng gây tội lỗi mất tâm hồn,

Ðừng phạm hành vi bất chánh chơn,

Ðừng có bao giờ theo ác hạnh,

Ðừng đưa huynh đệ bước sai đường.

176-77. Ai biết hoàn thành đúng chánh chân

Những điều này, giống nguyệt tròn dần,

Như vua danh tiếng tăng lên mãi,

Làm ánh sáng soi đám bạn thân,

Yêu mến họ hàng, khi tận mạng,

Hiền nhân sẽ đạt đến thiên cung.

Như vậy, chẳng khác nào đem vầng trăng soi rọi khắp bầu trời, bậc Ðại sĩ giải đáp vấn đề của vị Bà-la-môn này với mọi vẻ tinh thông của một bậc Giác ngộ. Dân chúng reo hò vỗ tay vang dậy. Hàng ngàn tiếng reo tán thưởng cùng vô số khăn vẫy lên không và tiếng búng tay lách tách. Họ thả luôn cả đồ trang sức trên tay. Vua xứ Ba-la-nại hoan hỷ tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ ngài. Còn vị Tế sư Sucīrata, sau khi tặng thưởng ngài một ngàn cân vàng liền viết câu giải đáp vấn đề trên bằng son đỏ vào phiến vàng ấy và khi đến kinh thành Indapatta, ông tâu trình vua về câu giải đáp phụng sự chân lý như trên. Phần vua nhờ kiên tâm hành trì các pháp chân chánh, về sau được lên thiên giới.

***

Khi chấm dứt pháp thoại, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay từ xa xưa, Như Lai đã dùng đại trí để giải đáp mọi vấn đề.

Và Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời bấy giờ, Ānanda (A-nan) là Vua Dhanañjaya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Sucīrata, Kassapa (Ca-diếp) là Vidhura, Moggallāna (Mục-kiền-liên) là Bhadrakāra, Sāriputta (Xá-lợi-phất) là chàng trai trẻ Sañjaya và Trí giả Sambhava chính là Ta.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.