Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§513. CHUYỆN VƯƠNG TỬ JAYADDISA (Jayaddisajātaka)[4] (J. V. 21)
Kìa, bảy ngày qua chịu đói lòng...
Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.
Phần mở đầu cũng giống như chuyện kể trong Chuyện hiếu tử Sāma.[5] Nhưng vào dịp này, bậc Ðạo sư bảo:
– Các Hiền nhân ngày xưa đã từ bỏ chiếc lọng trắng có các vòng kim hoa để phụng dưỡng song thân.
Nói xong, Ngài liền kể câu chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, có một vị vua ở kinh thành Uttarapañcāla, trong quốc độ Kampilla,[6] mệnh danh là Pañcāla. Hoàng hậu của ngài có thai, sinh được một hoàng nam. Trong suốt tiền kiếp xưa, bà có một tình địch trong hậu cung, đang trong cơn nóng giận đã thề:
– Một ngày kia ta sẽ ăn thịt con bà!
Và để lời nguyền kia có công hiệu, nàng biến thành một con quỷ cái. Sau đó, ác quỷ tìm cơ hội chụp lấy hài nhi ngay trước mặt hoàng hậu, nhai ngấu nghiến như miếng thịt tươi rồi biến đi. Lần thứ hai cũng làm y hệt như thế, nhưng đến lần thứ ba, khi hoàng hậu đã vào phòng sinh, đám vệ binh liền canh gác quanh hoàng cung rất chặt chẽ. Vào ngày bà sinh con, quỷ cái lại xuất hiện và chụp lấy hài nhi. Hoàng hậu thét lên:
– Quỷ cái!
Lập tức binh lính cầm khí giới chạy đuổi theo con quỷ cái khi nghe báo động. Vì không kịp ăn thịt hài nhi, quỷ cái chạy trốn, ẩn mình dưới cống. Hài nhi nhận quỷ cái ấy làm mẹ, ngậm vú đòi bú và quỷ cái kia bỗng sinh lòng thương hài nhi như mẹ thương con liền đi đến nghĩa địa giấu hài nhi trong hang đá và chăm sóc kỹ lưỡng.
Hài nhi lớn dần, quỷ cái đem thịt người về cho nó ăn và cả hai đều sống bằng thức ăn này. Ðứa trẻ không biết mình là người, song dù tưởng mình là con của quỷ, cậu bé cũng không thể biến hóa khỏi hình người hay giấu mình được. Ðể thực hiện việc này, con quỷ đưa cho cậu bé cất một loại rễ cây. Nhờ công lực của thứ rễ này, cậu biến hình được và tiếp tục sống bằng thịt người. Lúc bấy giờ, quỷ cái có việc đi xa để chầu đại lực quỷ vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn) rồi chết luôn tại đó. Còn phần hoàng hậu, lần thứ tư sinh được một hoàng nam bình yên vì quỷ cái đã chết. Và do sự kiện hoàng nam sinh ra chiến thắng kẻ thù là quỷ cái kia nên được đặt tên là Jayaddisa (Chiến Thắng).
Khi hoàng tử khôn lớn, học hành tinh thông mọi mặt, chàng lên nắm vương quyền theo nghi lễ giương chiếc lọng trắng và trị vì quốc độ. Vào thời ấy, hoàng hậu của vua sinh hạ Bồ-tát và được đặt tên là Alīnasattu (Dũng Cảm). Khi hoàng tử lớn khôn, tinh thông mọi môn học thuật liền được phong làm phó vương. Còn cậu bé làm con của quỷ cái vì bất cẩn làm hư hỏng rễ cây kia nên không thể giấu mình được nữa, phải sống trong nghĩa địa, ăn thịt người nhưng vẫn xuất lộ nguyên hình. Dân chúng thấy vậy sợ hãi, đến kêu than với nhà vua:
– Tâu Ðại vương, một con quỷ có hình dạng rõ ràng đang ăn thịt người trên nghĩa địa. Dần dần nó sẽ tìm đường vào kinh thành ăn thịt dân. Xin Ðại vương ra lệnh bắt nó đi!
Nhà vua chấp thuận ngay và ra lệnh bắt quỷ nọ. Một đạo binh cầm khí giới đứng quanh thành. Con quỷ ấy trần truồng nom thật khủng khiếp, nhưng lại sợ chết nên thét to và nhảy vào giữa ba quân. Quân sĩ la lên:
– Quỷ đây rồi!
Và họ cũng lo sợ cho mạng sống của họ nên tan rã thành hai nhóm và bỏ chạy. Con quỷ chạy thoát được và ẩn mình trong rừng, từ đó không dám lai vãng ở chỗ có người.
Nó sống dưới gốc cây đa gần con đường lớn xuyên qua rừng. Khi dân chúng qua lại đường đó, nó bắt lấy từng người một đem vào rừng giết ăn thịt. Lúc bấy giờ, có một Bà-la-môn dẫn đầu đoàn bộ hành, đưa một ngàn đồng tiền cho nhóm kiểm lâm rồi đi ngang qua đường ấy với năm trăm cỗ xe. Con quỷ có hình người liền rống lên, nhảy vào đoàn người ấy. Họ hốt hoảng chạy trốn, ngã lăn lóc dưới đất. Quỷ chụp lấy gã Bà-la-môn, nhưng vì bị mảnh gỗ gây thương tích trong lúc đang chạy trốn, lại bị nhóm kiểm lâm đuổi theo rất gắt nên nó thả gã Bà-la-môn và đi đến nằm dưới gốc cây vẫn thường trú ẩn.
Ðến ngày thứ bảy, Vua Jayaddisa truyền lệnh đi săn và khởi hành từ kinh thành. Ngay lúc nhà vua lên đường, một người dân vùng Takkasilā là một Bà-la-môn tên gọi Nanda, đang phụng dưỡng cha mẹ, đến yết kiến đức vua, mang theo bốn bài kệ, mỗi bài trị giá bốn trăm đồng tiền. Nhà vua dừng lại để nghe kệ và ra lệnh làm chỗ nghỉ ngơi cho ngài. Trong lúc đi săn, ngài bảo:
– Người nào để con hươu chạy thoát từ phía mình thì phải trả tiền cho vị Bà-la-môn về các bài kệ ấy.
Sau đó, một con hươu sao xuất hiện, chạy thẳng về phía nhà vua để thoát thân. Các cận thần cười rộ lên. Nhà vua chụp lấy kiếm, đuổi theo con hươu chừng ba do-tuần, bắt được nó liền lấy kiếm xẻ đôi và gánh lên đòn.
Lúc trở về, ngài đi đến chỗ quỷ nhân thường ngồi, nghỉ ngơi một lát trên bãi cỏ kusa rồi định tiếp tục đi. Lúc đó quỷ nhân xuất hiện và thốt lên:
– Dừng lại, ngươi định đi đâu, ngươi là mồi ngon của ta!
Rồi chụp lấy tay ngài, quỷ ngâm vần kệ:
64. Kìa, bảy ngày qua chịu đói lòng,
Mồi ngon bỗng xuất hiện sau cùng,
Phải chăng danh tiếng ngươi lừng lẫy,
Ta muốn biết tên họ, giống dòng?
Nhà vua kinh hoảng khi thấy quỷ nhân nên đứng sững như trời trồng, không thể chạy trốn được, song rồi tỉnh trí dần, ngài đáp vần kệ thứ hai:
65. Nếu ngươi biết Chiến Thắng là vua,
Của xứ Pañcāla quốc độ ta,
Săn bắn trong rừng ta lạc bước,
Xin dùng hươu nọ thả ta ra.
Con quỷ nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:
66. Muốn cứu mạng, ngài đã hiến dâng,
Mồi kia ngon thật đấy Quân vương,
Ta xơi ngài trước và không bỏ,
Thú nếm thịt hươu, chớ nói quàng!
Khi nhà vua nghe vậy liền nhớ đến Bà-la-môn Nanda và ngâm vần kệ thứ tư:
67. Ví ta chẳng thuộc mạng an toàn,
Ðược thả như ta khẩn thiết van,
Thì hãy cho ta tròn hứa cũ,
Ta đà giao ước Bà-la-môn,
Sáng mai cứu được lời danh dự,
Rồi sẽ trở về với quỷ nhân.
Quỷ nhân nghe vậy, lại ngâm vần kệ thứ năm:
68. Ðến gần chỗ chết chẳng an lòng,
Lo lắng việc gì hỡi Ðại vương,
Nói thật cho ta, rồi có thể,
Ta bằng lòng thả một ngày ròng.
Nhà vua ngâm vần kệ thứ sáu để giải thích sự việc ấy:
69. Ta hứa lời cùng một đạo nhân,
Nợ kia chưa trả, hứa chưa xong,
Mong tròn nguyện ước, thanh danh cứu,
Ta sẽ gặp ngài buổi rạng đông.
Nghe vậy, quỷ nhân đáp vần kệ thứ bảy:
70. Ngài đã hứa cùng một đạo nhân,
Nợ kia chưa trả, hứa chưa xong,
Mong tròn nguyện ước, thanh danh cứu,
Rồi trở về đây buổi rạng đông.
Nói xong, con quỷ để cho vua đi. Vua được tha về liền bảo:
– Xin đừng bận tâm vì ta, sáng sớm mai ta sẽ trở lại.
Rồi ghi nhận một số dấu đường xong, ngài trở lại với đoàn binh sĩ và chúng hộ tống ngài về kinh thành. Sau đó, ngài triệu vị Bà-la-môn vào ban tặng bốn ngàn đồng tiền. Rồi ngài lại truyền đưa vị Bà-la-môn lên ngồi trên một cỗ xe, ra lệnh cho đoàn tùy tùng rước vị này thẳng đến Takkasilā. Ngày hôm sau, nôn nóng đến gặp quỷ nhân, ngài gọi hoàng thái tử đến dặn dò.
***
Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ giải thích việc này:
71. Thoát ác quỷ kia lại trở về,
Nhà yêu, mộng ước đẹp tràn trề,
Với La-môn bạn không sai hứa,
Song dặn Alīnasattu quý tử kia.
72. Vương nhi nay nhận chức Quân vương,
Cai trị bạn thù thật chính chân,
Ðừng để bất công làm hại nước,
Cha đành nộp mạng chốn hung thần.
Thái tử nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ mười:
73. Hoàng nhi mong biết rõ nguyên nhân,
Khiến trẻ mất ân lộc phụ hoàng,
Cha phải đưa con lên kế vị,
Thiếu cha, con chẳng thiết ngai vàng.
Nhà vua nghe vậy, ngâm vần kệ tiếp theo:
74. Này con, cha chẳng thể tìm ra,
Một ác ngôn hay một nghiệp tà,
Song nợ thanh danh giờ trả trọn,
Còn lời nguyền giữ với yêu ma.
Thái tử nghe thế liền ngâm vần kệ:
75. Cha ở lại đây, con sẽ đi,
Trở về an ổn, có mong gì,
Nếu cha đi nữa, con theo gót,
Phụ tử cùng nhau chẳng sống chi.
Nghe lời này, nhà vua đáp kệ:
76. Vương tử, con theo đúng đạo trời,
Song cha mất hết thú yêu đời,
Nếu yêu tinh nọ dùng xiên gỗ,
Nướng thịt con ăn trọn cả đời.
Nghe vậy, thái tử lại ngâm vần kệ nữa:
77. Nếu cha thoát được vuốt yêu tinh,
Vì Phụ vương, con nguyện bỏ mình,
Hơn nữa, con tràn trề hỷ lạc,
Ðược đem đời hiến đấng sinh thành.
Nghe vậy, vua nhận thấy đức hiếu thảo của con liền nhận lời cầu mong của con và bảo:
– Tốt lành thay, vương nhi, hãy ra đi!
Thế là thái tử giã từ song thân và rời kinh thành.
Bậc Ðạo sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:
78. Thái tử anh hùng, xin vĩnh biệt,
Cúi đầu, ngài đảnh lễ song thân.
Lúc ấy, song thân ngài, em gái ngài, vương phi cùng triều thần tiễn ngài ra khỏi kinh thành. Ngài hỏi vua cha lối đi và sau khi sắp xếp mọi việc cẩn thận cùng dặn dò khuyên nhủ những người thân, ngài lên đường tiến về hang quỷ, oai hùng như con sư tử có bờm. Mẹ ngài thấy ngài ra đi, không thể kiềm chế được liền ngất lịm. Vua cha giơ hai tay khóc lớn.
***
Bậc Ðạo sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:
Phụ vương khóc lớn giơ tay cản,
Hiền mẫu buồn thương ngã lịm dần.
Như vậy, muốn nêu rõ lời nguyện cầu của vua cha và lời thề chân thực của mẹ ngài, em ngài cùng vương phi, bậc Ðạo sư ngâm thêm bốn vần kệ:
79. Khi hình thái tử khuất mờ dần,
Trước mắt thảm sầu của phụ thân,
Cầu nguyện chư thần tay chắp khấn,
Varuṇa với Soma vương,
Phạm thiên, nhật nguyệt, chư thần nữa,
“Bảo vệ hoàng nhi được vạn an,
Nhờ các thần linh này, thái tử,
Mong con thoát ác quỷ kinh hoàng!”
[Mẫu hậu:]
80. Như mẹ Rāma đẹp dáng người,
Cứu con nàng đã bặt tăm hơi,
Khi vào rừng rậm Daṇḍaka ấy,
Con trẻ ta mong giải thoát thôi,
Nhờ khấn lời chân thành, ước nguyện,
Chư thần cho trở lại an vui!
[Vương muội:]
81. Hoàng huynh chẳng có lỗi lầm gì,
Dù lộ rõ ràng hoặc giấu che,
Chứng thực lời này, con nguyện ước,
Chư thần mang thái tử quay về!
[Vương phi:]
82. Với thiếp, chàng không phạm lỗi lầm,
Lòng đầy yêu dấu, hỡi lang quân,
Chứng thực lời này, xin ước nguyện,
Thần thánh cho chàng trọn tấm thân!
Về phần thái tử ra đi theo lời hướng dẫn của vua cha lên đường đến nơi quỷ nhân ở. Song quỷ nhân nghĩ thầm: “Các vua Sát-đế-lỵ nhiều mưu mẹo lắm, ai biết được việc gì sẽ xảy ra?” Rồi nó trèo lên cây đợi nhà vua đến. Khi nhìn thấy thái tử, nó nghĩ: “Người con đã ngăn cản vua cha và tự dẫn thân đến. Không có gì phải sợ người ấy cả.” Và quỷ trèo xuống, ngồi quay lưng về phía thái tử. Khi đến nơi, thái tử đứng trước quỷ nhân, vừa lúc quỷ nhân này ngâm vần kệ:
83. Chàng từ đâu đến, hỡi hoàng nam,
Có biết rừng này của quỷ chăng?
Ai đến thật xem thường tính mạng,
Nơi loài quỷ dữ chiếm làm hang.
Nghe vậy, thái tử bèn đáp kệ:
84. Ta biết rõ ngươi, quỷ bạo tàn,
Chốn này ngươi ở giữa rừng hoang,
Ta là đích tử Jaya đế,
Ăn thịt ta rồi thả phụ vương.
Quỷ nhân lại ngâm vần kệ:
85. Ta biết con trai chúa Jaya,
Dáng chàng để lộ việc kia mà,
Thật là gian khổ cho chàng quá,
Phải chết vì thay mạng của cha.
Thái tử liền đáp kệ nữa:
86. Nghĩ rằng chẳng phải việc anh hùng,
Ðược chết vì ân phước phụ thân,
Và mẹ quý yêu khi bỏ mạng,
Ðời đời hưởng cực lạc thiên cung.
Nghe vậy, quỷ liền nói:
– Này thái tử, không có kẻ nào không sợ chết. Thế tại sao chàng lại không sợ?
Ngài liền nói lý do cho quỷ nghe qua hai vần kệ:
87. Nhớ ta không phạm lỗi lầm gì,
Dù lộ ra ngoài hoặc giấu che,
Sinh tử ta đều cân nhắc kỹ,
Dù đây, hay các cõi sau về.
88. Ăn thịt ta đây, hỡi quỷ nhân!
Phải làm công việc ấy cho xong,
Ta buông mình xuống trên cao chết,
Người cứ ăn ta thỏa nguyện lòng.
Quỷ kia nghe vậy kinh hoảng liền bảo:
– Ta không thể ăn thịt người này được.
Rồi nghĩ mưu kế cho ngài chạy trốn, quỷ liền bảo:
89. Nếu chàng tự nguyện muốn liều thân,
Thái tử đem đời cứu phụ vương,
Ta bảo chàng rời ngay bước vội,
Tìm gom củi đốt lửa than hừng.
***
Bậc Ðạo sư ngâm một vần kệ nữa làm sáng tỏ vấn đề này:
90. Hoàng nam anh dũng nhặt cây rừng,
Và chất cao lên một cái giàn,
Và thét vừa châm: “Bày tiệc sẵn,
Hãy xem, ta nhóm lửa cho hừng!”
Khi thấy thái tử trở về và nhóm lửa, quỷ nhân nói:
– Người này thật gan dạ, không sợ chết. Xưa nay ta chưa từng thấy ai can đảm như vậy.
Nó ngồi sững sờ, thỉnh thoảng lại nhìn thái tử. Ngài thấy thái độ quỷ nhân như thế liền ngâm vần kệ:
91. Ðừng đứng nhìn ta dáng sững sờ,
Ta cầu ngươi giết bắt ăn ta,
Khi đang còn sống ta trù tính,
Muốn để ngươi ăn thịt đúng giờ.
Quỷ nhân nghe vậy liền ngâm kệ:
92. Một Hiền nhân chánh trực, công bằng,
Chắc chẳng bao giờ phải bị ăn,
Hoặc kẻ nào ăn người ắt hẳn,
Ðầu kia tan nát bảy phần chăng?
Thái tử nghe vậy hỏi:
– Nếu ngươi không muốn ăn ta, tại sao ngươi bảo ta bẻ cành về nhóm lửa?
Quỷ nhân nói:
– Ta muốn thử chàng đó thôi, vì ta chắc chàng sẽ bỏ chạy trốn.
Thái tử đáp:
– Bây giờ làm sao ngươi thử ta được, bởi vì lúc còn là súc sinh, ta đã để cho Thiên chủ thử đức hạnh của ta rồi.
Cùng với lời này, ngài ngâm vần kệ:
93. Ðế Thiên giả dạng một La-môn,
Thỏ lấy thịt mình để cúng dâng,
Từ đó mặt trăng in dáng thỏ,
Ta chào nguyệt diện dạ-xoa thần!
Quỷ nhân nghe vậy thả cho thái tử đi về và bảo:
94. Như trăng thoát vuốt La thần,
Chiếu giữa đêm rằm tỏa ánh quang,
Ngài, chúa Kampilla anh dũng đã,
Thoát tay quỷ dữ, sáng huy hoàng,
Bạn đang sầu, bỗng tung hô dậy,
Trước mặt ngài xuất hiện vẻ vang,
Phụ mẫu thân yêu, ngài cống hiến,
Bao niềm hạnh phúc ngập hân hoan.
Rồi nó nói thêm:
– Hỡi đấng anh hùng, hãy đi đi!
Và nó để bậc Đại sĩ lên đường. Sau khi đã hàng phục quỷ nhân xong, ngài còn dạy nó ngũ giới và muốn thử xem nó có phải quỷ không, ngài nghĩ thầm: “Mắt bọn quỷ thường đỏ và không chớp. Chúng không đổ bóng xuống đường và không hề biết sợ gì cả. Còn đây không phải quỷ. Ðây là người. Nghe nói, cha ta có ba vương huynh bị quỷ dữ tha đi, hai người ắt hẳn đã bị ăn thịt rồi, còn một người được quỷ cái thương yêu với tình mẹ con. Chắc là đây thôi. Ta phải đem vị này về tâu với vua cha để đưa lên ngôi báu mới được.”
Nghĩ vậy, ngài kêu lên:
– Này Tôn ông, Tôn ông chẳng phải là quỷ đâu mà là bào huynh của vua cha ta. Xin mời Tôn ông đi về, cùng ta giương chiếc lọng trắng biểu hiện vương quyền trong giang sơn của tổ tiên mình.
Khi quỷ nhân đáp:
– Ta không phải là người.
Thái tử nói:
– Tôn ông chẳng tin ta ư? Vậy kẻ nào cho Tôn ông tin được?
Quỷ đáp:
– Có chứ, ở một nơi nọ có một ẩn sĩ đã thành tựu Thiên nhãn thông.
Thế là ngài dẫn quỷ đến nơi ấy. Vừa trông thấy hai người xuất hiện, vị ẩn sĩ hỏi ngay:
– Hai vị có cùng dòng họ tổ tiên, cần gì mà đến đây?
Nói xong, vị ẩn sĩ lại nói rõ về liên hệ dòng họ giữa hai người. Con quỷ ăn thịt người liền tin ngay và bảo:
– Này hiền hữu cứ về triều đi, phần ta, ta sinh ra với hai bản chất trong một hình hài. Ta không muốn làm vua. Ta sẽ đi tu làm ẩn sĩ.
Thế là quỷ thọ giới tu hành với vị ẩn sĩ ấy. Sau đó, thái tử đảnh lễ hai vị và trở về triều.
***
Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ thêm vấn đề này:
95. Alīnasattu, thái tử anh hùng,
Nghiêng mình kính lễ quỷ nhân hung tàn,
Thêm lần thoát nạn lên đàng,
Về Kampilla xứ, an toàn tấm thân.
Ngâm kệ xong, bậc Ðạo sư diễn tả những gì dân thành thị, nông thôn đã làm khi thái tử trở về thành, qua vần kệ cuối cùng:
96. Từ thành thị đến thôn trang,
Nhân dân lũ lượt lên đàng chen chân,
Kìa, đồng nô nức hô vang,
Uy danh thái tử can tràng hùng anh,
Tượng, xa ngất nghểu đăng trình,
Ðến ngài đảnh lễ, cung nghênh khải hoàn.
Vua nghe thái tử đã trở về liền đi ra ngoài đón ngài. Thái tử được đám đông hộ tống bước đến đảnh lễ vua cha. Vua cha hỏi:
– Này Vương nhi, làm thế nào con thoát được ác quỷ kia?
Ngài đáp:
– Tâu Phụ vương, vị đó chẳng phải quỷ đâu, chính là bào huynh của Phụ vương, là bá phụ của con đấy.
Ngài liền kể mọi chuyện cho vua cha nghe và nói:
– Vương phụ nên đi thăm bá phụ ngay.
Vua lập tức ban lệnh khua trống lên rồi cùng đoàn tùy tùng lên đường đi thăm hai vị ẩn sĩ. Vị ẩn sĩ trưởng kể lại đầy đủ chi tiết câu chuyện hài nhi bị quỷ bắt đi ra sao; thay vì ăn thịt, quỷ cái đem hài nhi về nuôi thành quỷ nhân, vua và quỷ liên hệ máu huyết như thế nào. Vua liền bảo:
– Này Hoàng huynh, hãy về làm vua trị nước!
– Xin cảm tạ Ðại vương, không được đâu.
Vua lại nói:
– Thế thì Hoàng huynh đến ở trong vườn thượng uyển, ta sẽ cung cấp đủ bốn thứ vật dụng.
Nhà ẩn sĩ lại từ chối. Sau đó, vua cho lập ngôi làng trên một ngọn núi không xa nơi ẩn cư kia, xây hồ, trồng trọt đất đai và đem một ngàn gia đình cùng nhiều của cải đến lập một ngôi làng lớn cùng bố thí, cúng dường cho hai vị ẩn sĩ. Ngôi làng lớn dần thành thị trấn Cullakammāsadamma. Vùng có quỷ nhân được bậc Ðại sĩ Sutasoma điều phục mệnh danh là thị trấn Mahākammāsadamma.
***
Bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại xong liền tuyên thuyết các sự thật và nhận diện tiền thân:
– Vào lúc kết thúc các sự thật, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình đã đắc quả Dự lưu. Thời ấy, phụ vương và mẫu hậu là hai thân trong hoàng tộc ngày nay, ẩn sĩ là Sāriputta (Xá-lợi-phất), quỷ nhân là Aṅgulimāla, vương muội là Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc), hoàng hậu là mẹ của Rāhula và Thái tử Alīnasattu chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.