Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§511. CHUYỆN MONG MUỐN GÌ (Kiṁchandajātaka) (J. V. 1)
Vì cớ sao ngài ở bến sông...
Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc hành trì ngày trai giới (Uposatha).
Một ngày nọ, một số nam nữ cư sĩ đang hành trì ngày trai giới đến nghe pháp và ngồi tại pháp đường. Bậc Ðạo sư hỏi xem hội chúng có hành trì ngày trai giới không và khi họ đáp là có, Ngài nói thêm:
– Các ông hành trì ngày trai giới, thật tốt lành thay! Ngày xưa, có những người chỉ nhờ hành trì nửa ngày trai giới mà đạt được vinh quang tột bực.
Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể câu chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, tại thành Ba-la-nại, Vua Brahmadatta cai trị quốc độ rất đúng pháp và là một người sùng đạo, ngài nhiệt tình hành trì mọi thiện sự trong ngày trai giới, giữ đúng giới luật và bố thí. Ngài cũng khuyên các cận thần cùng nhiều người khác giữ hạnh nguyện bố thí, làm phước đức, nhưng vị quốc sư của ngài là một kẻ xấu miệng, ưa gièm pha, tham của hối lộ nên xử án bất công.
Vào một ngày trai giới kia, vua triệu các cận thần lại và bảo họ giữ giới. Vị quốc sư này không thi hành phận sự của ngày trai giới. Vì vậy, trong ngày ấy, lão nhận hối lộ và xử án bất công rồi sau đó đến chầu vua. Sau khi hỏi mỗi vị cận thần xem có giữ giới không, vua hỏi vị quốc sư:
– Này Tôn giả, ông có giữ giới không?
Lão nói dối là có, rồi rời cung vua. Lúc ấy, một vị cận thần khác quở trách lão:
– Chắc chắn ngài chẳng giữ giới.
Lão đáp:
– Ta đã ăn từ sáng sớm, nhưng khi ta về nhà sẽ súc miệng và giữ giới luật, ta sẽ không ăn gì buổi chiều và suốt đêm ta sẽ giữ giới luật, như thế ta cũng giữ được nửa ngày trai giới.
Họ đáp:
– Thưa Tôn giả, thế thì tốt lắm!
Lão đi về nhà và làm đúng như vậy.
Một ngày kia, khi lão đang ngồi xử kiện, một người đàn bà vốn là người giữ đúng giới luật đang gặp chuyện thưa kiện và vì không thể về nhà được, bà ấy nghĩ thầm: “Ta không thể vi phạm hành trì ngày trai giới.” Nên lúc đến gần giờ trì giới, bà ấy bắt đầu súc miệng. Và lúc ấy có người mang vào một mâm xoài chín biếu vị tế sư Bà-la-môn. Lão thấy bà ta đang giữ giới liền bảo:
– Bà ăn đi rồi giữ giới.
Bà ấy vâng theo. Hạnh nghiệp tốt của vị Bà-la-môn kia chỉ nhiều chừng này.
Về sau đó, lão chết đi và tái sanh vào vùng Tuyết Sơn trong một nơi phong cảnh tươi đẹp bên bờ sông Kosikī, nhánh của sông Hằng, trong một khu rừng xoài rộng ba do-tuần, trên một vương sàng nguy nga của một cung điện bằng vàng. Lão tái sanh như thể một người vừa thức giấc liền được phục sức xiêm y, điểm trang lộng lẫy với dung mạo tuyệt vời, lại được mười sáu ngàn tiên nữ chầu hầu chung quanh. Suốt đêm trường, lão thọ hưởng vinh quang này vì đã được sinh làm vị thần trong ma cung, phước lộc của lão cũng tương xứng với hạnh nghiệp xưa của lão.
Vì thế khi bình minh đến, lão vào rừng xoài; ngay lúc vừa bước chân vào, thân thể thần tiên của lão biến mất, lão hóa hình thù to lớn như một cây thốt nốt cao tám mươi cubit, toàn thân rực sáng như một cây phượng vĩ đang trổ hoa đỏ thắm. Lão chỉ có một ngón tay trên mỗi bàn tay nhưng móng lại to như bàn cuốc; với các móng tay này, lão móc thịt sau lưng, xé thịt mình ra mà ăn rồi đau đớn điên cuồng lên, lão cứ khóc rống thật to. Mãi vào lúc mặt trời lặn, thân hình này biến mất và phong cách thần tiên của lão hiện ra. Các tiên nữ nhảy múa, cầm nhiều nhạc cụ trong tay hầu hạ quanh lão; trong lúc hưởng đại vinh hiển như vậy, lão bước lên tiên cung trong khu rừng xoài diễm lệ.
Như vậy là do kết quả việc tặng trái xoài cho người đàn bà đang trì giới, lão được hưởng một khu rừng xoài rộng ba dặm. Nhưng vì phải thọ lãnh nghiệp quả về việc nhận hối lộ và xử án sai lầm, lão phải xé thịt trên lưng ra mà ăn; đồng thời nhờ việc hành trì nửa ngày trai giới, lão tận hưởng vinh quang mỗi đêm cùng với mười sáu ngàn tiên nữ múa hát hầu hạ quanh mình.
Vào thời ấy, vua xứ Ba-la-nại hiểu rõ tội lỗi do tham dục gây ra nên xuất gia tu hành, ẩn cư trong một thảo am nọ trên một vùng phong cảnh xinh đẹp ở miền hạ lưu sông Hằng, sống khổ hạnh với những vật ngài kiếm được.
Một ngày kia, có quả xoài chín trong rừng ấy bằng cái bát rơi xuống sông Hằng, theo dòng sông đến nơi đối diện với chỗ định cư của vị khổ hạnh này. Trong khi ngài đang súc miệng, chợt thấy trái xoài trôi giữa dòng, ngài liền lội qua lấy nó mang về am, cất vào nội thất, nơi ngài đốt ngọn lửa thiêng.[1] Sau đó, khi xẻ xoài ra, ngài chỉ ăn vừa đủ sống rồi gói phần còn lại bằng lá chuối. Ngài cứ ăn dần dần trái xoài như vậy cho đến hết.
Khi đã ăn hết xoài, ngài không thể ăn trái cây nào khác nữa, nhưng bị thói tham ăn của ngon trói buộc, ngài thốt lời thề từ nay chỉ ăn xoài chín mà thôi, liền đến bờ sông nhìn xuống dòng nước, quyết không bao giờ đứng dậy cho đến khi tìm được một trái xoài. Thế là ngài nhịn ăn sáu ngày liền, cứ ngồi đó chờ mong tìm xoài cho đến khi ngài bị khô héo vì nắng gió.
Ðến ngày thứ bảy, một vị nữ thần xem xét sự việc ấy, thấy rõ lý do hành động của ngài và suy nghĩ: “Vị tu khổ hạnh này bị thói tham ăn câu thúc, cứ ngồi đó nhịn đói bảy ngày nhìn xuống sông Hằng. Việc ta chối từ ngài một quả xoài là điều sai lầm, vì nếu không có xoài, ngài sẽ chết, vậy ta sẽ cho ngài một trái.”
Thế là nữ thần liền hiện lên giữa không gian trên sông Hằng và nói với ngài vần kệ đầu tiên:
Suốt trong mùa hạ nắng oi nồng,
Bà-la-môn hỡi, người thầm nguyện,
Chủ đích gì ngài vẫn ước mong?
Nhà tu khổ hạnh nghe thế liền đáp lại chín vần kệ:
2. Bồng bềnh trôi nổi ở trên dòng,
Ta thấy xoài kia, hỡi nữ thần,
Vươn cánh tay dài ta lấy quả,
Ðem về nhà cất ở gian trong.
3. Ngọt ngào hương vị thật thanh tao,
Ta nghĩ của trời quý giá sao,
Hình dáng đẹp tươi này sánh với,
Chiếc bình lớn nhất khác chi nào.
4. Ta giấu xoài trong lá chuối cây,
Cắt ra từng lát với dao này,
Ít oi thực phẩm, phần ăn uống,
Hợp với đời người đạm bạc đây.
5. Phần ăn dần hết, bớt thèm thuồng,
Tuy thế lòng ta vẫn tiếc luôn,
Trong các trái nào ta kiếm được,
Ta đều không thấy vị thơm ngon.
6. Héo hắt ta đà mỏi mắt trông,
Xoài ngon ta lượm ở bên dòng,
Sẽ làm ta chết, ta lo sợ,
Chẳng trái cây nào ta ước mong.
7. Vì sao giữ giới đã trình nàng,
Cho dẫu ta đang ở cạnh dòng,
Sóng vỗ chập chùng bao loại cá,
Ðầy đàn bơi lội cứ tung tăng.
8. Nay ta cầu khẩn nói cho ta,
Chớ sợ hãi rồi bỏ chạy xa,
Hỡi nàng tố nữ là ai đó?
Tại sao nàng lại đến đây mà?
9. Thị nữ chư thiên đẹp tuyệt vời,
Khác nào vàng óng ánh ngời soi,
Xinh như bầy hổ còn thơ dại,
Dọc các sườn non vẫn giỡn chơi.
10. Cũng ở nơi đây cõi thế gian,
Muôn vàn vẻ đẹp lắm hồng nhan,
Song không ai giữa nhân, thiên ấy,
Lại dám khoe tươi với nữ hoàng.
Ta hỏi nữ thần muôn diễm lệ,
Ðược trời phú mọi vẻ thiên quang,
Xin cho ta biết phương danh tánh,
Nơi chốn xuất thân quý tộc nàng.
Nữ thần liền đáp tám dòng kệ:
11. Trên dòng sông nước thật xinh tươi,
Bên cạnh Hằng giang đạo sĩ ngồi,
Bá chủ ngôi cao ta ngự trị,
Dưới vùng sâu thẳm thủy triều trôi.
12. Cầm quyền ngàn thạch động xung quanh,
Che phủ rừng cây rậm lá xanh,
Từ đó bao dòng tràn ngập chảy,
Hòa theo với sóng nước sông mình.
13. Mỗi khu rừng, mỗi khóm vườn cây,
Ðưa đến long cung lắm suối đầy,
Ðổ xuống bao nguồn nước xanh biếc,
Ngập dòng bát ngát của ta này.
14. Lệ thường trên các phụ lưu này,
Nhiều trái sinh từ đủ loại cây,
Ðào đỏ, chà là, sung, mít, vả,
Với xoài, người thấy rõ ràng ngay.
15. Trái kia đều mọc mỗi bên bờ,
Rơi xuống vừa tầm với của ta,
Ta bảo của trời cho chánh đáng,
Danh ta, ai có thể gièm pha?
16. Hiểu thông điều ấy, lắng nghe đây,
Hỡi Đại vương thông tuệ, trí tài,
Chớ đắm tham vào tâm dục vọng,
Bỏ ngay lời nguyện đáng chê bai.
17. Ðại vương xưa ngự trị giang sơn,
Nay việc ngài, ta chẳng tán dương,
Muốn chết giữa mùa xuân tuổi trẻ,
Rõ ràng biểu lộ đại điên cuồng.
18. Giáo sĩ, chư thần, quỷ hiển linh,
Mọi người biết hạnh nghiệp uy danh,
Của ngài, mọi Thánh nhân thanh tịnh,
Dưới thế đã thành tựu hiển vinh,
Quả thấy việc ngài làm trái đạo,
Hiền nhân tất cả biểu đồng thanh.
Tiếp theo đó, vị tu hành ngâm bốn vần kệ:
19. Ai biết đời người thật mỏng manh,
Mọi loài dục giới thoáng qua nhanh,
Không hề nghĩ đến điều sinh sát,
Mà trú an trong mọi hạnh lành.
20. Xưa nàng được hội Thánh tôn vinh,
Là bậc làm công đức sáng danh,
Nay lại giao du nhiều kẻ ác,
Tiếng xấu nàng đang cố tạo thành.
21. Ví ta chết cạnh bến sông nàng,
Hỡi nữ thần dung sắc vẹn toàn,
Tiếng xấu trùm lên nàng tất cả,
Khác nào mây phủ giữa không gian.
22. Vậy kiều tiên hỡi, lão van nàng,
Hãy tránh xa điều ác, sợ rằng,
Mặc lão chết đi, rồi hối tiếc,
Làm trò đàm tiếu giữa trần gian!
Nghe nói vậy, nữ thần đáp lại năm vần kệ:
23. Ta biết ngài thầm kín ước mong,
Và ngài nhẫn nhục thật cam tâm,
Ta cam đành phận làm tỳ nữ,
Ðem đến xoài ngon tặng đạo nhân.
Kìa ác dục từ bao thuở trước,
Khó thay bỏ lạc thú phàm trần,
Ngài đã đạt đến tâm thanh tịnh,
Và trí bình an phải giữ luôn.
24. Người nào đã thoát buộc ràng xưa,
Lại bám xiềng gông trước chuyện thừa,
Phóng dật bước vào phi thánh đạo,
Chất chồng ác nghiệp mãi luôn mà.
25. Ta tặng ngài điều nguyện khát khao,
Rồi ngài tiêu hết mọi ưu sầu,
Ta đưa ngài đến nơi êm mát,
Ngài sống đời an lạc biết bao.
26. Mây-na, cu gáy, hạc, hồng nga,
Say mật quây quần cạnh khóm hoa,
Từng đám thiên nga cao vút lượn,
Chim đồng, đàn khổng tước kiêu sa,
Cùng nhau hòa tiếng ca êm ái,
Ðánh thức rừng cây tỉnh giấc mơ.
27. Hoa nghệ, kadamba rộ bông,
Khác nào rơm rạ ở trên đồng,
Chà là, thốt nốt nồng nàn chín,
Tô điểm chung quanh lủng lẳng chùm,
Và giữa cây cành đầy trĩu trái,
Xoài cây sung mãn, hãy nhìn trông!
Vừa ca tụng thắng cảnh kia, tiên nữ vừa mang nhà tu hành đến đó và mời ngài ăn xoài trong rừng này cho đến khi thỏa thích rồi nàng lại ra đi. Nhà ẩn sĩ ăn xoài mãi đến lúc đã hết cơn thèm xong nghỉ ngơi chốc lát. Sau đó, đi loanh quanh thơ thẩn trong rừng, ngài thấy vị thần kia đang lúc chịu khổ sở đau đớn, ngài không còn lòng dạ nào thốt ra lời hỏi han vị ấy, nhưng khi hoàng hôn đến, ngài thấy vị thần kia được các tiên nữ hầu hạ và thọ hưởng vinh quang của tiên giới, ngài liền ngâm ba vần kệ:
28. Suốt đêm hưởng thụ tiệc vui say,
Khăn đội, đeo vòng tay, cổ tay,
Tô điểm thêm tràng hoa đẹp đẽ,
Khổ đau phải chịu lúc ban ngày.
29. Hàng ngàn tiên nữ hộ quanh ngài,
Thần lực ngài kia thật đại tài,
Kỳ diệu biết bao quyền biến đổi,
Khổ hình lại hóa cảnh bồng lai!
30. Ngài đã làm sao phải đọa đày,
Tội gì ngài hối tiếc ngày nay,
Sao từ lưng nọ nay ngài phải,
Móc thịt mình ăn lại mỗi ngày?
Vị thần kia nhận ra ngài liền bảo:
– Ðại vương không nhận ra tiểu thần, nhưng ngày xưa tiểu thần là tế sư của Ðại vương. Hạnh phúc này thần được hưởng hằng đêm là nhờ ơn Ðại vương. Đó là kết quả hành trì nửa ngày trai giới của thần, còn nỗi thống khổ thần phải chịu ban ngày là kết quả nghiệp ác mà thần đã làm. Vì khi thần được Ðại vương cho ngồi ghế phán quan, thần đã ăn hối lộ và phán xét sai trái, thần lại là kẻ xấu miệng, ưa phỉ báng sau lưng người khác nên kết quả việc ác thần đã tạo những ngày đó, nay thần phải chịu khổ đau này.
Nói xong, vị thần ngâm hai vần kệ:
31. Xưa thân thọ hưởng thánh tam kinh,
Song ác nghiệp giam hãm đắm mình,
Việc ác đã làm cho bạn hữu,
Bao năm ròng cuộc sống trôi nhanh.
32. Kẻ nào phỉ báng các tha nhân,
Cứ thích rình mò phá tiếng thơm,
Phải móc thịt mình ăn lại mãi,
Như ta việc ấy hiện đang làm.
Nói xong, vị thần hỏi nhà tu khổ hạnh tại sao đã đến đây. Vị này liền kể hết đầu đuôi câu chuyện của mình. Vị thần lại hỏi:
– Vậy xin thưa ngài, ngài định ở đây hay lại ra đi?
– Ta không muốn ở lại, ta muốn trở về am.
Vị thần đáp:
– Thưa ngài, lành thay, thần sẽ dâng cúng ngài trái xoài chín thường xuyên đầy đủ.
Rồi vị ấy dùng thần lực đưa vị vua ẩn sĩ trở về vùng thảo am, khuyên ngài sống thiểu dục ở đó, yêu cầu ngài phải giữ tròn lời nguyền rồi ra đi. Từ đó, vị thần kia thường xuyên cung cấp xoài cho nhà tu khổ hạnh. Ngài thọ hưởng thứ trái cây ấy, hành trì những pháp môn tu tập để làm phát khởi thiền định và về sau được thọ sanh vào Phạm thiên giới.
***
Bậc Ðạo sư sau khi chấm dứt pháp thoại với các cư sĩ liền thuyết các sự thật và nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, nữ thần ấy là Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc) và ẩn sĩ khổ hạnh chính là Ta.
Vào lúc kết thúc các sự thật một số người đạt Sơ quả (Dự lưu), một số người đạt Nhị quả (Nhất lai), lại có một số người khác đạt Tam quả (Bất lai).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.