Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§510. CHUYỆN VƯƠNG TỬ THIẾT THẤT (Ayogharajātaka)[27] (J. IV. 491)
Mầm sống một khi nhập tử cung...
Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể về đại sự xuất thế của Ngài. Tại đây, một lần nữa, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Như Lai làm đại sự xuất thế vì trước kia Như Lai cũng đã làm như thế.
Và Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, bà chánh hậu thọ thai, đến thời mãn nguyệt khai hoa, bà sinh một vương tử ngay sau buổi rạng đông. Bấy giờ, trong một đời trước, có một phụ nữ khác cũng lấy chồng chung với bà, đã thốt lời thề rằng nàng sẽ tìm cách ăn thịt hài nhi của bà ở đời sau. Chuyện kể lại, vì nàng không sinh sản gì nên đem lòng tức giận cả hai mẹ con bà thuở ấy mới thốt lên lời nguyền như trên. Bởi duyên cớ đó, nàng tái sanh thành một con quỷ cái. Còn người mẹ kia nay trở thành chánh hậu và sinh hạ hoàng nam này. Con quỷ cái ấy tìm cơ hội hiện hình khủng khiếp chụp lấy hài nhi ngay trước mặt người mẹ và mang đi mất. Hoàng hậu thét lên vang lừng:
– Một con quỷ đã bắt hoàng nam của ta rồi!
Con quỷ kia nhai ngấu nghiến trệu trạo đứa hài nhi như ăn một củ hành sống rồi nuốt chửng hết. Sau đó, nó lại biến hóa tay chân ra đủ hình dạng để đe dọa cho hoàng hậu kinh hoảng lên rồi biến đi. Khi vua hay tin dữ ấy, ngài im lặng không nói được gì, ngài suy nghĩ: “Còn biết làm sao chống chọi lại con quỷ cái kia chứ?”
Lần kế tiếp, hoàng hậu lâm bồn, vua sắp đặt quân canh phòng bên cạnh bà. Bà hạ sinh một vương tử nữa, con quỷ ấy lại đến vồ lấy đứa bé ăn thịt rồi biến mất. Lần thứ ba, chính là bậc Ðại sĩ nhập mẫu thai của chánh hậu. Vua triệu tập một số người lại phán:
– Hễ hoàng nhi nào do chánh hậu của trẫm sinh ra đều bị một con quỷ cái đến vồ lấy ăn thịt. Vậy phải làm sao bây giờ?
Sau đó, có người tâu:
– Bọn quỷ rất sợ lá thốt nốt, Chúa thượng nên cho buộc một ngọn lá ấy vào tay chân hoàng hậu.
Một kẻ khác lại tâu:
– Bọn quỷ cũng sợ cái nhà bằng sắt. Vậy phải dựng lên một cái.
Nhà vua chấp thuận. Ngài triệu tập tất cả thợ rèn trong quốc độ, ra lệnh dựng cho ngài một cái nhà bằng sắt và cho người giám sát công việc của họ. Ngay trong kinh thành, tại một địa điểm khả ái, họ xây lên một ngôi nhà có cột trụ và mọi bộ phận trong nhà không gì khác ngoài sắt. Trong chín tháng, ngôi nhà được hoàn tất, thật là một lâu đài vững chắc kiên cố, được đèn chiếu sáng suốt ngày đêm không bao giờ ngưng cả.
Khi vua biết rằng hoàng hậu sắp mãn nguyệt khai hoa, ngài truyền lệnh sắp đặt tiện nghi đầy đủ cho tòa nhà sắt rồi rước bà vào trong đó. Bà hạ sinh một hoàng nam có đầy đủ mọi quý tướng tốt lành và hai vị đặt tên con là Ayoghara (Thiết Thất, ngôi nhà sắt).
Vua giao hài nhi cho các nhũ mẫu trông nom, lại sắp đặt một đội vệ sĩ hùng hậu giữ quanh lâu đài ấy, trong khi ngài cùng chánh hậu đi diễu quanh kinh thành hướng về phía hữu rồi ngự lên thượng lầu nguy nga lộng lẫy của hoàng cung. Ðồng thời, con quỷ cái vì cần uống nước đã đi tìm thứ nước của Thiên vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn) nên bị giết.
Trong ngôi nhà sắt kia, bậc Ðại sĩ lớn lên cùng với trí khôn phát triển dần, ngài được dạy đủ mọi môn học thuật cũng tại nơi đó cả.
Vua hỏi các triều thần:
– Nay vương nhi đã mấy tuổi rồi?
Hội chúng đáp:
– Tâu Chúa thượng, vương tử vừa lên mười sáu. Thật là một trang anh hùng đầy dũng lực cường tráng, đủ để chế ngự cả ngàn con quỷ kia!
Vua liền quyết định giao vương quyền vào tay vương tử. Ngài ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, truyền bảo rước vương tử ra khỏi ngôi nhà sắt đến triều kiến ngài. Quần thần tuân lệnh. Toàn thành Ba-la-nại được trang hoàng rực rỡ, kinh đô vĩ đại ấy trải khắp mười hai do-tuần, họ lại tô điểm cho vương tượng bằng tấm khăn phủ lưng thật lộng lẫy, phục sức cho vương tử cực kỳ sang trọng rồi đặt ngài lên lưng vương tượng và tâu:
– Tâu Ðiện hạ, xin Ðiện hạ ngự du một vòng theo phía hữu quanh kinh thành đang nô nức mở hội này, đây chính là giang sơn sự nghiệp của Ðiện hạ, sau đó sẽ đến đảnh lễ Hoàng thượng là đại vương quốc độ Kāsi, vì hôm nay chính là ngày Ðiện hạ đón nhận chiếc lọng trắng.
Bậc Ðại sĩ ngự lễ rước ngài diễu quanh kinh thành theo về phía bên hữu, ngài thấy các hoa viên tuyệt mỹ, đủ màu sắc xinh tươi với hồ nước, các thửa ruộng, vườn cây, nhà cửa phố xá, khắp nơi đều đẹp mắt. Ngài tự nhủ thầm: “Tất cả cảnh sắc thế này mà trong bao lâu nay vương phụ lại giam giữ ta rất cẩn mật, chẳng hề cho ta thấy kinh thành được trang hoàng rực rỡ như thế kia. Ta đã có lỗi gì vậy?” Ngài liền đem câu ấy hỏi các triều thần. Hội chúng đáp:
– Tâu Ðiện hạ, ngài chẳng có lỗi gì. Song có một con quỷ cái đã xé xác ăn hai vương huynh của ngài mất đi nên đức Thượng hoàng cho ngài ở trong ngôi nhà sắt và chính ngôi nhà sắt ấy đã cứu mạng ngài.
Những lời này lại làm ngài suy nghĩ: “Suốt mười tháng ta đã ở trong bụng mẹ, chắc chẳng có khác gì cái địa ngục hình Chảo Sắt (Thiết Oa) hay địa ngục Phân Dơ (Phẩn Nị) đâu; rồi khi ta ra khỏi bụng mẹ, cả mười sáu năm trời nay ta sống trong ngục thất kia, không bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Mặc dù ta đã thoát được đôi bàn tay của con quỷ kia, ta vẫn không sao thoát được tuổi già và thần chết. Vậy ta sẽ xin phép phụ vương đi theo đời sống tu hành và ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn để thực hiện ước nguyện.”
Như vậy, sau khi dự lễ hội rước ngài ngự quanh kinh thành xong, ngài vào hoàng cung đảnh lễ phụ vương và đứng chờ lệnh. Vua ngắm dung sắc tuyệt mỹ của ngài, lại nhìn đến quần thần với tấm lòng yêu thương mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt. Quần thần hỏi:
– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng muốn truyền cho chúng thần làm gì?
– Các hiền khanh hãy đưa vương nhi ngự lên một khối trân châu bảo ngọc, làm lễ Quán đảnh cho vương nhi với nước từ ba vỏ ốc xà cừ xong rồi giương chiếc lọng trắng viền tua vàng lên che cho vương nhi!
Song bậc Ðại sĩ đảnh lễ phụ vương và thưa trình:
– Tâu Phụ vương, con không muốn liên hệ gì với vương triều nữa. Con ước ao sống đời tu tập và con tha thiết cầu mong Phụ vương cho phép con làm việc ấy.
– Này Vương nhi, tại sao con lại muốn rời bỏ vương vị và sống theo đời tu khổ hạnh?
– Tâu Phụ vương, suốt mười tháng con nằm trong bụng mẹ chẳng khác nào địa ngục Phân Dơ; khi đã sinh ra đời, vì sợ con quỷ dữ mà con phải sống trong cảnh giam cầm, chẳng bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Con thấy giống như bị nhốt vào ngục Ussada. Nay đã thoát nạn quỷ cái ấy, song con chẳng bao giờ thoát được tuổi già và cái chết, vì không ai có thể chiến thắng thần chết cả. Con nhàm chán sự sinh ra đời rồi. Vậy trước khi già, bệnh, chết kéo đến với con, con quyết theo đời sống tu hành, tiến bước trong chánh hạnh. Con không muốn ngai vàng dành cho con. Tâu Phụ vương, xin Phụ vương ban ơn, chấp thuận cho con đi!
Rồi ngài thuyết pháp cho thân phụ như vầy:
363. Mầm sống một khi nhập tử cung,
Mới vừa khởi sự bước đầu xong,
Nó liền tiến mãi hoài liên tục,
Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.
364. Không một quyền năng, chẳng lực hùng,
Giúp người tránh lão tử sau cùng,
Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
Con quyết tìm thanh tịnh bản thân.
365. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh,
Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
Song chẳng phá tan quân Diêm chúa,
Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình.
366. Dù mã, tượng, xa với đạo quân,
Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân,
Song không ai thoát tay thần chết,
Con quyết đời thanh tịnh để phần.
367. Với mã, tượng, xa, các đạo binh,
Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành,
Song không thấy có người nào đủ,
Sức mạnh phá tan được tử hình,
Vì thế lòng con nay đã quyết,
Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình.
368. Voi điên, da đẫm ướt trên đường,
Phố xá giẫm tan, giết hại dân,
Song chẳng thấy người đầy thế lực,
Giẫm tan tiêu diệt tử Ma vương,
Cho nên con quyết lòng tu tập,
Thanh tịnh đời riêng với bản thân.
369. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
Bắn như tia chớp tự xa bay,
Song con không thấy người thừa sức,
Làm tổn thương được thần chết này,
Vì thế lòng con giờ quyết định,
Theo đời thanh tịnh để phần đây.
370. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn,
Không lâu để sụp đổ điêu tàn,
Ðúng thời vạn vật thành không cả,
Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.
371. Giống như cây ở mé bờ sông,
Bán áo, người say đổi rượu nồng,
Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
372. Tứ đại rã tan, chúng lụi dần,
Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần,
Ngã như trái rụng vì cây đổ,
Con quyết đời thanh tịnh bản thân.
373. Xuân của thế gian khác nữ thần,
Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng,
Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa,
Ðối với lão niên kiệt quệ dần,
Lạc thú ái ân nào có được,
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
374. Ác quỷ, thần tiên lúc nổi sân,
Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
Song làn khí độc thần linh ấy,
Chẳng giúp vào xô ngã tử thần.
Vì vậy lòng con giờ đã quyết,
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
375. Khi ác thần, yêu quái, quỷ tinh,
Nổi sân được vuốt dịu làm lành,
Do người cúng bái, song không thể,
Vì vậy giờ con đây quyết định,
Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.
376. Những người gây tội ác, hung tàn,
Khi lộ bị hình phạt chúa ban,
Song với tử thần không thể phạt,
Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng,
377. Những người gây tội ác đau thương,
Tìm cách cản tay các đế vương,
Song với tử thần tay lưỡi hái,
Việc này xem quả thật vô phương.
Cho nên con quyết giờ đây chọn,
Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường.
378. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn,
Những kẻ mang danh vị tối tôn,
Những đại phú gia, người thế lực,
Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương.
Cho nên con quyết từ đây sống,
Phạm hạnh đời con đã chọn đường.
379. Cọp, beo, sư tử chụp con mồi,
Tất cả đều ăn sống, nuốt tươi,
Cho dẫu con mồi mong giãy giụa,
Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai.
Cho nên con trẻ từ đây quyết,
Phạm hạnh riêng con sống cả đời.
380. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng,
Diễn trò lừa bịp mắt người trông,
Muốn lừa thần chết, không mưu kế,
Thánh hạnh đời con đã quyết lòng.
381. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân,
Tấn công giết lập tức người trần,
Nọc kia thần chết không hề sợ,
Thanh tịnh đời con quyết chọn phần.
382. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
Vị lương y có đủ tài năng,
Làm tiêu tan hết xà công lực,
Song chữa vết thương của tử thần,
Không một anh hùng nào đủ sức,
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
383. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình,
Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa,
Nên con quyết Phạm hạnh cho mình.
384. Vài kẻ tinh thông thuật chú thần,
Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
Tuy nhiên không thể tàng hình mãi,
Mà tử thần trông thấy vẫn gần.
Vì vậy lòng con nay quyết định,
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
385. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân,
Ðều là người được hưởng bình an,
Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
Hạnh phúc thay là bậc chánh chân!
Chẳng bao giờ có người chánh hạnh,
Rơi vào trong đọa xứ đau buồn.
386. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình,
Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
Tà hạnh dẫn người vào địa ngục,
Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.
Khi bậc Ðại sĩ đã thuyết pháp như vậy qua hai mươi bốn vần kệ xong, ngài tiếp:
– Tâu Phụ vương, xin Phụ vương giữ quốc độ cho mình, phần con không màng đến nó chút nào. Ngay khi con đang tâu trình với Phụ vương thì bệnh tật, tuổi già và thần chết đều tiến đến gần con hơn. Xin Phụ vương ở lại vương vị cũ.
Sau đó, chẳng khác nào con voi điên cuồng bật tung xiềng xích bằng sắt, hoặc như chú sư tử trẻ sung sức phá vỡ chiếc lồng vàng, ngài đập tan mọi dục vọng phàm tục trong lòng và đảnh lễ song thân rồi ra đi.
Tiếp theo đó, phụ vương của ngài phán:
– Ta cũng không thiết ngai vàng, quốc độ nữa!
Rồi vua cha từ giã thế sự, ra đi cùng ngài. Khi các ngài đi rồi, chánh hậu, các triều thần Bà-la-môn, gia chủ cùng những người khác trong kinh thành đều bỏ nhà cửa ra đi hết. Thế là một đoàn đại chúng trải dài cả mười hai do-tuần, cùng với đám đông này, ngài tiến về phía Tuyết Sơn.
Khi Thiên chủ Đế-thích biết rằng ngài đã xuất gia, liền sai thiên sứ đi xây dựng một vùng am thất trải dài cả mười hai do-tuần, bề rộng bảy do-tuần và truyền bảo vị ấy đem vào đó mọi thứ cần thiết cho cuộc đời tu tập khổ hạnh. Cách thức bậc Ðại sĩ tiếp tục thâu nhận những người này vào hội chúng xuất gia của ngài và thuyết giáo cho hội chúng, sau đó hội chúng được sinh lên Phạm thiên giới hay chứng đắc quả Tam quả (Bất lai) như thế nào, tất cả đều diễn ra giống như trước kia.
***
Khi pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:
– Như vậy này các Tỷ-kheo, trước kia Như Lai cũng đã làm đại sự xuất thế.
Sau đó, Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, song thân của vương tử kia là phụ hoàng và mẫu hậu ngày nay, hội chúng của Như Lai là các thần dân và Ta chính là Hiền giả Ayoghara.
Xem S. I. 13, 165, Jaṭāsutta (Kinh Triền phược); S. I. 235, Satthāravandanāsutta (Kinh Đảnh lễ bậc Đạo sư); Cp. 88, Mātaṅgacariya (Hạnh của đức Bồ-tát Mātaṅga). ↑
Chiên-đà-la (P. Caṇḍāla, S. Caṇḍāla, 旃陀羅), thuộc giai cấp hạ đẳng, tiện dân. ↑
Đồng tiền Ấn Độ trị giá khoảng 5 đồng shilling của Anh. ↑
Bản CST viết Gaṇḍakucchi. ↑
Xem J. IV. 476, Hatthipālajātaka (Chuyện Hiền giả Hatthipāla), số §509; D. II. 220, Mahāgovindasutta (Kinh Đại Điển Tôn), số 19; S. I. 2, Upanīyasutta (Kinh Đưa đến đoạn tận); S. I. 54, Uttarasutta (Kinh Uttara); A. I. 155, Paṭhamadvebrāhmaṇasutta (Kinh thứ nhất về hai Bà-la-môn). ↑
P. kasiṇa, S. kṛtsna, 一切 (nhất thiết), 遍 (biến), 遍處 (biến xứ): Đề mục thiền quán. Tham khảo: D. 33; M. 77; Vism. IV-V; Asl. I. 248. ↑
Xem Vv. 123. Maṭṭhakuṇḍalīvimānavatthu (Chuyện lâu đài của vị thiên tử đeo vòng tai sáng chói); Pv. 24, Maṭṭhakuṇḍalīpetavatthu (Chuyện ngạ quỷ Maṭṭhakuṇḍalī); Ap. I. 108, Pañcadīpakattheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Pañcadīpaka); Ap. II. 373, Ekadīpiyattheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Ekadīpiya); Cp. 77, Sivirājacariya (Hạnh của đức Vua Sivi). ↑
Xem J. III. 461, Indriyajātaka (Chuyện các căn), số §423. ↑
Xem Dh. v. 177. ↑
Bản CST viết Sucandaka. ↑
Xem J. VI. 330, Mahāummaggajātaka (Chuyện đường hầm vĩ đại). Chuyện này trong bản PTS là số 546. Bản Tích Lan viết Ummaggajātaka, số 546. Bản CST viết Umaṅgajātaka, số 542. Bản Thái Lan và Campuchia viết Mahosadhajātaka, số 542. ↑
Xem J. V. 333, Cullahaṁsajātaka (Chuyện tiểu thiên nga), số §533. ↑
Xem J. II. 33, Morajātaka (Chuyện con công), số §159. ↑
Xem J. V. 359, Mahāhaṁsajātaka (Chuyện đại thiên nga), số §534. ↑
Như trên. ↑
Xem J. V. 317, Sona-Nanda-jātaka (Chuyện hai Hiền giả Sona và Nanda), số §532; J. VI. 77, Sāmajātaka (Chuyện hiếu tử Sāma), số §540; J. VI. 481, Vessantarajātaka (Chuyện Đại vương Vessantara), số §547; J. VI. 221, Mahānāradakassapajātaka (Chuyện bậc Đại trí Nārada Kassapa), chuyện này trong bản Tích Lan và PTS là số 544, trong bản CST là số 545. ↑
Xem Miln. 406, Sappaṅgapañha (Câu hỏi về tính chất của loài rắn). ↑
Xem Cp. 92, Somanassacariya (Hạnh của đức Bồ-tát Somanassa). ↑
Xem J. V. 194, Naḷinikājātaka (Chuyện Công chúa Naḷinikā), số §526. ↑
Xem J. VI. 157, Bhūridattajātaka (Chuyện bậc Đại trí Bhūridatta), số §543. ↑
Xem J. V. 161, Saṁkhapālajātaka (Chuyện long vương Saṁkhapāla), số §524. ↑
Xem J. II. 328, Cullapalobhanajātaka (Chuyện ít dục tham), số §263. ↑
Xem J. VI. 330, Mahāummaggajātaka (Chuyện đường hầm vĩ đại). Chuyện này trong bản PTS là số 546. Bản Tích Lan viết Ummaggajātaka, số 546. Bản CST viết Umaṅgajātaka, số 542. Bản Thái Lan và Campuchia viết Mahosadhajātaka, số 542. ↑
Xem J. IV. 394, Citta-Sambhūta-jātaka (Chuyện đôi bạn Citta và Sambhūta), số §498; D. II. 220, Mahāgovindasutta (Kinh Đại Điển Tôn), số 19; S. I. 3, Accentisutta (Kinh Thời gian trôi qua); S. I. 62, Nandasutta (Kinh Nanda). ↑
Asura (阿修羅, a-tu-la; 修羅, tu-la), một loại ác thần có tánh nóng nảy, sân hận, thường gây chiến với chư thiên cõi trời dục giới. ↑
Xem Dh. v. 116. ↑
Tham chiếu: J. IV. 52, Mahādhammapālajātaka (Chuyện Đại nhân Dhammapāla), số §447; Cp. 94, Ayogharacariya (Hạnh của đức Bồ-tát Ayoghara); Pe. 1, Ariyasaccappakāsanapaṭhamabhūmi (Phần thứ nhất về Tuyên thuyết Thánh đế); Thag. v. 303, Dhammikattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Dhammika); Xuất diệu kinh “Vô thường phẩm” 出曜經無常品 (T.04. 0212.1. 0609b22); Pháp tập yếu tụng kinh “Hữu vi phẩm” 法集要頌經有為品 (T.04. 0213.1. 0777a02); Buddhist Birth Stories (Những câu chuyện bổn sanh Phật giáo), p. 34. ↑
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.