Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§503. CHUYỆN ANH VŨ SATTIGUMBA (Sattigumbajātaka)[16] (J. IV. 430)

Vua xứ Pañcā với đạo quân...

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại vườn nai Maddakucchi về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa). Khi Ðề-bà-đạt-đa xô tảng đá lớn và một mảnh đâm vào chân của đức Thế Tôn khiến chân Ngài nhức nhối, nhiều nhóm Tăng chúng họp lại đến viếng đức Như Lai.

Bấy giờ, lúc đức Thế Tôn thấy quần chúng tụ họp đầy đủ, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nơi đây đông đảo lắm, dân chúng sẽ tụ tập nhiều nữa. Vị nào hãy dùng cái cáng khiêng ta đến Maddakucchi.

Các Tỷ-kheo liền làm theo đúng như vậy. Còn Tôn giả Jīvaka chữa cho chân đức Như Lai bình phục. Khi ngồi trước bậc Ðạo sư, Tăng chúng nói về chuyện này:

– Ðề-bà-đạt-đa là một kẻ ác và toàn thể hội chúng của ông ta đều là bọn người ác, kẻ gây ác nghiệp thường thân cận với lũ ác nhân.

Bậc Ðạo sư hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nói chuyện gì vậy?

Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Ðề-bà-đạt-đa thân cận với bọn ác mà xưa kia cũng vậy.

Sau đó, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Pañcāla ngự trị trong kinh thành Uttarapañcāla. Bồ-tát được sinh làm vương tử của anh vũ vương trong khóm cây bông vải mọc trên cao nguyên giữa lòng một khu rừng rậm, có tất cả hai anh em trai. Ngược chiều gió với vùng đồi núi này là một làng trộm cướp có năm trăm tên cướp trú ngụ. Thuận chiều gió núi rừng lại là một vùng ẩn am với năm trăm vị Hiền nhân.

Vào thời kỳ loài chim anh vũ thay lông, một cơn lốc cuốn đi mất một chim anh vũ và rớt vào làng trộm cướp kia, nằm giữa đống vũ khí của bọn cướp và do chim rớt vào đó nên bọn chúng gọi nó là Sattigumba (gươm giáo tua tủa). Còn con chim kia rơi vào am ẩn sĩ, giữa đám hoa mọc trên chỗ đất cát, vì lý do đó nên nó được đặt tên là Pupphaka (hoa điểu). Thế là chim Sattigumba lớn lên giữa bọn cướp, còn Pupphaka sống với các vị Hiền nhân.

Một ngày kia, vua phục sức oai nghi sang trọng, dẫn đầu một đoàn tùy tùng đông đảo, ngự trên vương xa lộng lẫy để đi săn hươu nai. Không xa kinh thành mấy, vua vào rừng cây xinh tươi tràn đầy hoa quả. Vua phán:

– Nếu kẻ nào để cho một con nai thoát đi do lỗi mình thì phải lãnh trách nhiệm ấy!

Sau đó, vua xuống xa giá tìm nơi ẩn mình, đứng yên với cung trong tay, dưới túp lều dành cho ngài. Bọn người xua dã thú, đập vào các bụi rậm để đuổi con mồi. Một con hươu liền vùng dậy tìm đường thoát thân, nó thấy một kẽ hở ở cạnh vua liền chui lọt qua đó biến mất. Mọi người hỏi nhau:

– Ai đã để con hươu chạy thoát? Chính là đức vua rồi!

Nghe vậy cả bọn cười nhạo vua, và vì lòng tự kiêu, ngài không chịu được trò đùa này:

– Nay ta phải bắt cho được con hươu!

Vua kêu lớn và nhảy lên xe.

– Nhanh lên!

Ngài bảo người quản xa và ngài vụt biến mất theo con hươu. Vua đi nhanh quá khiến bọn kia không theo kịp ngài, chỉ có vua và viên quản xa, hai người này cứ tiến lên đến giữa trưa, song chẳng gặp hươu đâu cả. Sau đó, vua trở lại và khi thấy cạnh làng bọn cướp có một thung lũng đẹp mắt, ngài đi xuống tắm rửa, uống nước rồi đi lên khỏi con suối.

Sau đó, người quản xa lấy tấm thảm từ trong vương xa ra trải dưới bóng cây, vua nằm trên đó, người quản xa ngồi dưới chân vua xoa bóp, vua cứ thức ngủ chập chờn. Dân chúng trong làng bọn cướp và cả bọn cướp nữa đều đã vào rừng để chầu vua vì thế trong làng không còn ai ngoài Sattigumba và người đầu bếp tên là Patikolamba.

Vào lúc ấy, Sattigumba bước ra khỏi làng và khi thấy vua, nó liền suy nghĩ: “Giá ta giết chết người kia đang nằm ngủ và lấy hết đồ trang sức ấy nhỉ?” Vì thế, nó trở lại gọi Patikolamba và kể cho gã nghe mọi sự việc.

***

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm năm vần kệ:

159. Vua xứ Pañcā với đạo quân,

Lên đường săn bắn lũ nai rừng,

Trong rừng sâu thẳm vua đi lạc,

Chẳng có một ai ở kế gần.

160. Kìa, ngài trông thấy ở trong rừng,

Bọn cướp đã làm chốn ẩn thân,

Anh vũ, một chim đang tiến bước,

Tức thì lời ác nó kêu vang.

161. “Ngồi trên xe nọ, một nam trang,

Châu báu nhiều sao, lắm ngọc vàng,

Vương miện trên đầu vàng óng ánh,

Chiếu hồng như thể ánh trời quang.

162. Ngự quan cùng chúa ngủ say sưa,

Nằm đó lúc trời nắng giữa trưa,

Ta hãy cướp ngay đồ báu vật,

Nhanh lên, cất giấu hết bây giờ!

163. Cảnh lặng yên như lúc nửa đêm,

Ngự quan cùng chúa ngủ nằm yên,

Bạc vàng châu báu, nào ta lấy,

Giết họ rồi ta chất củi lên!”

Nghe nói vậy, người kia bước ra khỏi nhà, khi nhìn thấy đó chính là vua, gã kinh hãi và ngâm kệ này:

164. Này Satti, có phát điên khùng?

Lời lẽ nào nghe mới nói chăng?

Vua chúa giống như vầng lửa cháy,

Vô cùng nguy hiểm, nếu ta gần.

Chim đáp lại qua kệ khác:

165. Ngu dại Pati nói chuyện này,

Và ông điên, chẳng phải ta đây,

Mẹ ta trần trụi, sao khinh bỉ,

Nghề nghiệp nhà ta sống thuở rày?

Bấy giờ vua thức dậy và khi nghe chúng nói chuyện với nhau bằng tiếng người, nhận thấy nguy hiểm, ngài ngâm kệ sau để đánh thức người lái xe:

166. Dậy mau hiền hữu quản xa này,

Vào cỗ xe, nào thắng ngựa ngay,

Chỗ khác, ta tìm nơi ẩn náu,

Vì ta chẳng thích chú chim đây.

Gã liền vùng dậy, thắng đôi ngựa vào xe rồi ngâm kệ nữa:

167. Xa mã thắng rồi, tâu Ðại vương,

Sẵn sàng đã buộc đủ dây cương,

Ðại vương, xin ngự vào xa giá,

Nơi khác ta tìm để náu nương.

Vua vừa ngự vào trong xe thì đôi tuấn mã thuần chủng đã lao vút nhanh như gió. Khi chim Sattigumba thấy xe vua đi xa rồi, lòng dao động nôn nao, nó liền ngâm hai vần kệ:

168. Này đi đâu cả đám râu mày,

Họ vẫn thường lai vãng chốn đây?

Vua nước Pañcā vừa chạy mất,

Chúng không thấy nữa, hãy đi ngay!

169. Vua ấy thoát thân có được chăng?

Hãy cầm lao, giáo với tên, cung,

Kìa Pañcā chúa vừa bay mất,

Này chớ cho vua ấy thoát thân!

Con chim nói huyên thuyên như thế, đạp cánh xào xạc bay lui bay tới đầy vẻ bồn chồn. Trong lúc ấy, vua vừa kịp thì giờ đến am ẩn sĩ của các Hiền nhân. Vào lúc này, các vị ấy đã ra đi kiếm củ quả rừng, chỉ còn một mình chim anh vũ Pupphaka ở trong am. Khi chim thấy vua liền ra chào đón ngài và nói chuyện với ngài rất cung kính tao nhã.

***

Lúc ấy, bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:

170. Chim anh vũ với mỏ tươi hồng,

Cung cách ân cần đã nói năng:

“Vạn tuế Ðại vương, duyên hạnh ngộ,

Ðưa đường ngài ngự đến đây chăng?

Vinh quang Ðại đế đầy uy lực,

Chúa thượng cần gì phải giáng lâm?

171. Tiṇḍuka, piyāla, các lá cây,

Cùng kāsumārī quả ngọt ngào thay,

Dù còn ít ỏi, tâu Hoàng thượng,

Chọn thức tối ưu, đó sẵn bày.

172. Nước mát từ hang núi thật sâu,

Ẩn mình bên dưới ngọn đồi cao,

Oai hùng Ðại đế, tâu ngài ngự,

Ẩm thực tùy nghi thỏa khát khao.

173. Mọi người đang lượm trái trong rừng,

Các vị nơi này vẫn trú thân,

Xin Chúa đích thân cầm ngự thiện,

Tay thần chẳng có để cúng dâng.”

Vua rất đẹp ý khi nghe lời nói tao nhã lịch thiệp này liền đáp lời qua đôi vần kệ:

174. Chưa có chim nào ưu tú hơn,

Trên đời, anh vũ quả thuần chơn,

Còn chim anh vũ đằng kia ấy,

Ðã nói bao điều thật ác ngôn.

175. “Ðừng để nhà vua chạy thoát thân,

Ðến mau! Trói giết!” nó kêu vang,

Trẫm đi tìm đến am tu sĩ,

Và thấy nơi này chốn vạn an.

Khi được vua bảo như thế, Pupphaka ngâm đôi vần kệ:

176. Ðại đế, chúng thần chính đệ huynh,

Cùng chung một mẹ đã khai sinh,

Cưu mang đôi trẻ trên cây nọ,

Song chốn khác nhau đã trưởng thành.

177. Vì Satti đến bọn cường gian,

Còn tiểu thần đi đến Trí nhân,

Ác nọ, thiện đây, từ chỗ đó,

Phát sinh lề thói chẳng cùng đàng.

Sau đó, anh vũ giải thích đầy đủ chi tiết những sự khác nhau bằng cách ngâm vần kệ:

178. Ðâm chém, xích xiềng, kế bất lương,

Những hành vi bịp bợm, tồi tàn,

Bao nhiêu bạo động và xung kích,

Chính đó là môn nó sở trường.

179. Còn đây tiết độ, tự điều thân,

Nhân ái, công bằng với chánh chân,

Lữ khách uống ăn cùng trú ẩn,

Quây quần thần lớn giữa Hiền nhân.

Tiếp theo, chim lại thuyết pháp cho vua qua các vần kệ sau:

180. Ðối với ác nhân hoặc thiện nhân,

Mà người ta kính trọng tôn sùng,

Cho dù ác độc hay hiền đức,

Cũng khiến kẻ kia phải phục tùng.

181. Khi ta ngưỡng mộ bạn tâm đồng,

Như một người tri kỷ, bạn lòng,

Người ấy sẽ đồng hành, kế cận,

Bên mình ta đến phút sau cùng.

182. Tình bạn kết giao thấm nhiễm dần,

Chuyện này ngài thấy quả là chân,

Cứ ngâm thuốc độc vào tên bắn,

Vỏ bọc cũng thành nhiễm độc luôn.

183. Người trí tránh bầu bạn ác nhân,

Vì e ô nhiễm chạm vào thân,

Cá ươn cứ gói trong chùm cỏ,

Sẽ thấy cỏ kia cũng thối nồng,

Những kẻ kết giao phường trí độn,

Chính mình cũng sẽ hóa ngu đần.

184. Lá kia đem gói gỗ trầm hương,

Ngọn lá liền thơm ngát dịu dàng,

Cũng vậy nhiều người thành có trí,

Khi ngồi chầu các bậc Hiền nhân.

185. Nhờ ví dụ này bậc Trí nhân,

Phải am tường lợi lạc riêng phần,

Tránh xa bầu bạn phường gian ác,

Và sánh vai cùng bậc chánh chân,

Thiên giới đợi chờ người chánh hạnh,

Đọa vào ngục tối bọn tà gian.

Vua rất hoan hỷ với bài thuyết giảng này. Kế đó, các bậc Trí giả từ rừng trở về. Vua đảnh lễ các vị và nói:

– Cầu mong các Tôn giả tỏ lòng từ bi hạ cố đến an trú trong ngự viên của trẫm.

Và ngài đã thuyết phục được các vị nhận lời mời. Khi hồi cung, vua liền ban bố lệnh thả hết mọi chim anh vũ. Còn các bậc Trí nhân vẫn đến yết kiến vua. Ngài tặng các vị khu vườn thượng uyển để trú ngụ và chăm nom các vị rất chu đáo trong thời gian ngài còn tại thế. Sau khi mạng chung, ngài lên cộng trú với hội chúng chư thiên, hoàng thái tử của ngài được quần thần giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu làm lễ phong vương. Vị tân vương này cũng chăm sóc các Hiền nhân, và cứ thế cha truyền con nối suốt bảy đời vua đều bố thí cúng dường rất rộng rãi. Còn Bồ-tát an trú trong rừng cho đến khi mạng chung liền đi theo nghiệp của mình.

***

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ông thấy xưa kia Devadatta cũng đã thân cận bạn ác như bây giờ.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Devadatta là Sattigumba, đoàn tùy tùng của kẻ ấy là bọn cướp, Ānanda là vua, hội chúng của Như Lai là các Trí giả và Ta là anh vũ Pupphaka.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.