Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§501. CHUYỆN LỘC VƯƠNG ROHANTA (Rohantamigajātaka) (J. IV. 413)

Hãi kinh thần chết, hỡi Citta...

Câu chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm (Veḷuvana) về Tôn giả Ānanda (A-nan) đã hy sinh tính mạng mình. Sự hy sinh này được miêu tả trong chương XXI, Chuyện tiểu thiên nga,[12] chuyện điều phục con voi Dhanapāla (Tài Hộ).

Sau khi Tôn giả đã hy sinh tính mạng mình vì bậc Đạo sư, Tăng chúng bàn tán việc ấy trong pháp đường:

– Này các Hiền giả, Tôn giả Ānanda, sau khi đạt tri kiến đầy đủ về con đường tu tập giáo pháp, đã hy sinh tính mạng mình vì đấng Thập Lực (Dasabala).

Bậc Đạo sư bước vào, hỏi Tăng chúng nói chuyện gì trong khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình bày với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên vị ấy hy sinh tánh mạng vì Ta mà trước kia cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể cho hội chúng nghe một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, chánh hậu của vua tên là Khemā (Thái Hòa). Thời ấy, Bồ-tát được sinh làm con hươu ở vùng Tuyết Sơn, có màu da vàng óng ả tuyệt đẹp, em trai của ngài là Cittamiga và em gái ngài là Sutanā cũng có màu da như thế. Bấy giờ, Bồ-tát có tên Rohanta (Lỗ-hân), làm chúa tể đàn hươu lớn. Ngài băng ngang qua hai ngọn núi lớn nhất dãy Tuyết Sơn, đến giữa ngọn núi thứ ba ngài quyết định sống bên hồ Rohanta và được cả bầy hươu nai tám mươi ngàn con vây quanh hầu hạ. Thời ấy, ngài phụng dưỡng song thân già cả, mù lòa.

Bấy giờ, một người thợ săn ở trong một làng thợ săn gần Ba-la-nại đi đến vùng Tuyết Sơn và chợt thấy Bồ-tát. Lão trở về làng mình và vào lúc lâm chung, lão dặn con trai:

– Này con, ở một nơi nọ trong vùng đất cha săn bắn có một con hươu màu vàng óng, nếu khi nào đức vua hỏi thì con hãy tâu trình với ngài về chuyện đó!

Một ngày kia, Hoàng hậu Khemā trong một giấc mộng về sáng, nằm mơ thấy cảnh như vầy: Một con hươu màu vàng óng ngồi trên một chiếc kim đôn thuyết pháp cho hoàng hậu nghe bằng giọng nói ngọt ngào như mật, chẳng khác gì tiếng chuông ngân vang. Song trước khi bài giảng chấm dứt, con hươu đứng lên và chạy mất, bà giật mình tỉnh dậy và kêu to:

– Bắt lấy con hươu!

Các nữ tỳ nghe tiếng bà kêu, bật cười giòn giã:

– Đây là cung thất đóng kín mọi cửa lớn lẫn cửa sổ, ngay cả một mảy gió cũng không lọt vào được, giữa lúc này mà Lệnh bà gọi lớn bảo bắt con hươu kia.

Đến khi ấy bà mới biết đó chỉ là giấc mộng. Song bà tự nhủ: “Nếu ta bảo đó là giấc mộng thì đức vua sẽ không để ý. Nhưng nếu ta bảo đó là nỗi ước ao của một thai phụ thì ngài sẽ quan tâm lo lắng ngay. Vậy ta quyết phải nghe cho được lời thuyết pháp của chính con hươu màu hoàng kim ấy!”

Sau đó, bà liền nằm xuống giả vờ ngã bệnh. Vua bước vào, ngài hỏi:

– Này Ái khanh, có việc gì thế?

– Ôi tâu Chúa thượng, đó chỉ là nỗi ao ước tự nhiên của thần thiếp.

– Thế Ái khanh muốn điều gì?

– Thần thiếp ước ao được nghe lời thuyết pháp của một con hươu màu hoàng kim chân chánh.

– Kìa Ái khanh, điều Ái khanh ao ước không hề có, chẳng bao giờ có con vật nào là loài hươu hoàng kim cả.

Bà đáp:

– Nếu thần thiếp không được như ý, thần thiếp sẽ phải chết ngay lập tức.

Bà liền quay lưng lại về phía vua và nằm im. Vua bảo:

– Nếu có một con vật như thế trên đời này thì nó sẽ được bắt về ngay.

Sau đó, vua hỏi triều thần và các Bà-la-môn như trong Chuyện con công,[13] để xem thử có loài vật nào là hươu hoàng kim chăng. Khi được biết là hiện có, ngài triệu tập các thợ săn vào và hỏi:

– Trong các ngươi, ai đã từng thấy hoặc nghe nói về một con vật như thế chăng?

Con trai của lão thợ săn mà ta đã nói trên đây liền kể lại câu chuyện gã nghe được. Vua phán:

– Này ngươi, khi nào ngươi đem về cho trẫm con hươu kia thì trẫm sẽ ban thưởng cho ngươi rất trọng hậu, vậy ngươi hãy đi tìm kiếm nó và đem về đây!

Ngài bảo đưa tiền lộ phí cho gã và bảo gã lui ra. Người thợ săn tâu:

– Xin Chúa thượng đừng lo, nếu như tiểu thần không đem được con hươu ấy về thì tiểu thần cũng đem được bộ da nó về, nếu không đem được da thì cũng đem được lông nó về đây.

Sau đó, người ấy trở lại nhà, đưa số tiền vua ban cho gia đình mình rồi ra đi vào rừng và trông thấy lộc vương. Gã suy nghĩ: “Ta phải đặt bẫy ở đâu để bắt hươu đây?” Gã thấy ngay cơ hội tốt ở chỗ hươu nai uống nước. Gã kết một sợi dây bằng da thật chặt và đặt sợi dây vào một cái sào ở nơi mà Bồ-tát thường xuống để uống nước.

Hôm sau, Bồ-tát cùng với tám mươi ngàn con hươu trong lúc tìm kiếm thức ăn, đi đến đó để uống nước tại bến sông thường lệ. Ngài vừa đặt chân xuống liền bị kẹt ngay vào dây thòng lọng. Ngài suy nghĩ: “Nếu ta rống lên tiếng kêu bị nạn thì cả đàn hươu sẽ kinh hoàng chạy trốn mà không được ăn uống gì cả.” Vì thế, mặc dầu ngài bị siết chặt ở đầu cây sào, ngài vẫn đứng giả vờ uống nước như thể đang còn được tự do.

Khi tám mươi ngàn con hươu đã uống xong và bấy giờ chúng đã bước ra khỏi nước, ngài liền lắc mạnh cái thòng lọng ấy ba lần cố làm nó đứt ra. Lần đầu ngài làm rách da, lần thứ hai nó đâm sâu vào thịt và lần thứ ba làm giãn gân ra, vì thế cái thòng lọng siết tới tận xương tủy. Sau đó, vẫn không thể nào phá đứt thòng lọng, ngài rống lên tiếng kêu bị nạn. Cả bầy hươu kinh hoàng chạy thoát thân thành ba đàn lớn.

Cittamiga không tìm được Bồ-tát trong ba đàn ấy liền suy nghĩ: “Mối hiểm họa này vừa xảy ra cho bọn ta đã gieo xuống đại huynh của ta.” Khi quay lại, chú hươu em thấy ngài đã bị mắc bẫy thật chặt. Bồ-tát chợt thấy em mình liền kêu lên:

– Này hiền đệ, đừng đứng đây nữa, ở đây nguy hiểm lắm!

Rồi ngài ngâm kệ, thúc giục em chạy trốn:

104. Hãi kinh thần chết, hỡi Citta,

Cả đám hươu kia chạy thoát xa,

Hiền đệ hãy đi, vì bọn chúng

Cùng em sẽ sống, chớ chần chờ.

Ba vần kệ sau do hai anh em đối đáp nhau.

[Citta:]

105. Em chẳng đi đâu, Rohanta,

Tim em đã kéo bước em gần,

Chẳng lìa anh tại nơi này nữa,

Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

[Rohanta:]

106. Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,

Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,

Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,

Hỡi em đừng nấn ná gần ta.

[Citta:]

107. Em chẳng đi đâu, Rohanta,

Tim em đã kéo bước em gần,

Chẳng rời anh ở nơi này nữa,

Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rồi Citta đứng vững làm chỗ dựa cho Bồ-tát ở bên phải và cố làm vui vẻ để ngài phấn khởi tinh thần.

Còn Sutanā là bé hươu còn non tơ, cứ chạy quanh quẩn giữa bầy hươu, song không tìm thấy hai anh đâu cả, cô bé hươu non suy nghĩ: “Chắc tai họa đã xảy ra cho hai anh của ta rồi.” Bé hươu quay lại, đến chỗ hai anh. Và khi Bồ-tát thấy em gái tới liền ngâm vần kệ thứ năm:

108. Hươu nhút nhát, mau chạy trốn xa,

Bạo tàn thòng lọng siết chân ta,

Hãy đi theo chúng đừng lưu luyến,

Em phải sống cùng với mẹ cha!

Ba vần kệ sau lại được hai anh em đối đáp như trên.

[Sutanā:]

109. Em chẳng đi đâu, Rohanta,

Tim em đã kéo bước em gần,

Chẳng rời anh ở nơi này nữa,

Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

[Rohanta:]

110. Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,

Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,

Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,

Hỡi em đừng nấn ná gần ta!

[Sutanā:]

111. Em chẳng đi đâu, Rohanta,

Tim em đã kéo bước em gần,

Em liều mất mạng, song không thể,

Bỏ mặc anh sa bẫy buộc chân.

Như vậy, nàng hươu non cũng không chịu nghe lời ngài nên cứ đứng bên cạnh ngài mà an ủi vỗ về.

Bấy giờ, người thợ săn thấy bầy hươu đã chạy trốn mất và nghe tiếng kêu của con vật mắc nạn. “Ắt hẳn là hươu chúa đã bị lọt bẫy rồi!” Gã nói xong, nai nịt dây đai thật kỹ và chạy vội đi.

Bồ-tát thấy gã đến liền ngâm vần kệ thứ chín:

112. Thợ săn hung dữ, giáo trong tay,

Nhìn gã kìa đang bước đến đây,

Rồi với mũi tên hay ngọn giáo,

Chúng mình, gã giết nội ngày nay.

Cittamiga không chạy trốn, dù chú hươu này cũng trông thấy gã thợ săn. Còn bé Sutanā không đủ mạnh dạn để đứng yên, cứ vẫn chạy loanh quanh vì sợ chết. Rồi nàng hươu bé bỏng kia suy nghĩ: “Ta sẽ chạy thoát đi đâu nếu ta bỏ mặc các anh của ta?” Thế là cô nàng quay lại, đành chịu hy sinh tánh mạng, mặc cho tử thần ghi dấu trên đôi mày và đứng yên phía bên trái anh mình.

***

Bậc Đạo sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

113. Hươu non mềm yếu quá kinh hoàng,

Sợ hãi chạy quanh cố kiếm đường,

Rồi có hành vi đầy quyết liệt,

Vì nàng đành chịu phận đau thương.

Khi người thợ săn đến nơi, gã thấy cả ba sinh vật này đứng bên nhau. Một ý tưởng từ mẫn thương xót nổi lên trong lòng, vì gã đoán chúng là anh em cùng một mẹ. Gã suy nghĩ: “Chỉ một mình hươu chúa đàn bị mắc bẫy, còn hai hươu kia thì bị ràng buộc bởi những mối liên hệ thương yêu tôn trọng mà thôi. Thế chúng có họ hàng gì với hươu chúa chăng?” Gã hỏi câu ấy như vầy:

114. Đôi lộc dù không bị buộc chân,

Là ai, chầu chực cạnh tù nhân?

Không đành bỏ mặc chàng hươu chúa,

Và chạy trốn đi để thoát thân.

Bồ-tát liền đáp:

115. Em gái, em trai ấy thật là,

Cùng chung một mẹ đã sinh ra,

Không đành phận được riêng mình sống,

Bỏ mặc ta trơ trọi đấy mà.

Những lời này lại làm cho tim gã mềm dịu, xúc cảm tột độ. Lộc vương đệ Citta nhận thấy lòng gã thợ săn đã trở thành thân ái nhu hòa liền nói:

– Này hiền hữu thợ săn, hiền hữu đừng tưởng rằng đây là một con hươu tầm thường không có gì khác, ngài đây chính là lộc vương của tám mươi ngàn con hươu. Ngài đã sống đời đạo hạnh, có từ tâm đối với muôn loài và trí tuệ cao minh, ngài đã phụng dưỡng song thân nay đã già cả, mù lòa. Nếu hiền hữu giết một bậc chân chánh như vậy tức là giết chết song thân ta, em gái ta và ta nữa, luôn năm mạng tất cả. Còn nếu hiền hữu tha mạng ngài là hiền hữu đem cuộc sống lại cho cả năm mạng chúng ta đó.

Rồi hươu này ngâm kệ:

116. Chẳng ai chăm sóc lại mù lòa,

Đành phải chết luôn cả mẹ cha,

Thiện hữu hãy tha năm mạng ấy,

Và xin thiện hữu thả anh ta!

Khi người thợ săn nghe lời thuyết giáo đầy hiếu thảo này, lòng gã vô cùng hoan hỷ, gã đáp:

– Xin chúa hươu đừng sợ!

Rồi gã ngâm tiếp kệ đáp lời:

117. Thôi được, này xem ta thả ra,

Chúa hươu hiếu dưỡng mẹ cùng cha,

Khi nhìn con bảo toàn thân mạng,

Cha mẹ vui mừng sẽ múa ca.

Trong khi nói thế, gã suy nghĩ: “Nay ta còn thiết gì đến đức vua cùng các danh vọng ngài ban cho nữa? Nếu ta làm hại hươu chúa này thì hoặc là mặt đất sẽ há miệng ra nuốt chửng ta, hoặc là thiên lôi sẽ giáng xuống đánh tan xác ta. Vậy ta quyết thả hươu này thôi.” Vì thế, gã đến gần Bồ-tát, hạ cây sào xuống và cắt sợi dây da. Sau đó, gã ôm lấy hươu chúa vào lòng, đặt hươu xuống gần mặt nước, nhẹ nhàng từ tốn tháo gỡ nút dây thòng lọng ra khỏi chân hươu, nối các đầu dây gân lại với nhau, làm kín vết thương trên da thịt cùng các mép da bị xây xát, lấy nước rửa sạch máu, rồi cứ thoa bóp khắp mình mẩy hươu một cách đầy thương xót.

Nhờ uy lực của lòng nhân ái kia cùng với công hạnh viên mãn của Bồ-tát (thập hạnh Ba-la-mật) nên toàn thân ngài bình phục như trước, đủ gân, da, thịt, lông tơ và da non bao phủ cẳng chân nên không ai đoán biết được chỗ nào hươu đã bị trọng thương. Bồ-tát đứng tại đó và tràn ngập hạnh phúc trong lòng. Cittamiga nhìn ngài vô cùng hoan hỷ nên ngỏ lời cảm tạ người thợ săn qua vần kệ này:

118. Chú thợ, cầu mong phước lộc tràn,

Ước ao hạnh phúc cả thân bằng,

Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm,

Đại lộc vương nay được thoát nàn.

Lúc ấy, Bồ-tát suy nghĩ: “Phải chăng vì tự ý mà người thợ săn đánh bẫy ta, hay do lệnh của một ai khác?” Và ngài hỏi nguyên nhân bắt hươu này. Người thợ săn đáp:

– Thưa chúa hươu, kẻ hèn này không có liên can gì đến chúa hươu cả, chính Vương hậu Khemā của đức vua ước mong nghe ngài thuyết giảng Chánh pháp, cho nên kẻ hèn này đã đánh bẫy ngài theo lệnh vua truyền.

– Hiền hữu, bạn đã dám cả gan thả ta ra ư? Mau lên, đưa ta vào yết kiến đức vua, rồi ta sẽ thuyết giáo trước mặt hoàng hậu.

– Quả thật, tâu chúa hươu, các vua chúa thường ác độc lắm. Làm sao ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra? Kẻ hèn này chẳng màng thứ công danh gì mà đức vua có thể ban cho mình đâu. Vậy ngài hãy ra đi nơi nào như ý!

Nhưng Bồ-tát lại suy nghĩ rằng gã thả ngài ra là một việc quá liều lĩnh nên ngài phải tìm cơ hội cho gã đạt vinh quang, danh vọng đã được vua hứa hẹn trước ấy. Vì thế, ngài bảo:

– Này hiền hữu, hãy lấy tay xát mạnh vào lưng ta!

Gã làm y lời, bàn tay gã liền dính đầy lông tơ vàng óng.

– Thưa chúa hươu, kẻ hèn này sẽ làm gì với đám lông tơ này đây?

– Này hiền hữu, hãy đem chúng về trình lên đức vua cùng hoàng hậu, tâu các ngài rằng đây là đám lông tơ của hoàng kim lộc vương kia, rồi hãy thay mặt ta thuyết giáo cho hai vị ấy nghe các lời kệ mà ta sắp ngâm đây! Khi hoàng hậu nghe lời hiền hữu như thế là cũng đủ làm thỏa mãn niềm khát khao của hoàng hậu rồi.

– Lộc vương, xin ngài hãy thuyết pháp!

Người thợ săn nói và hươu chúa dạy cho gã mười vần kệ về đời sống Thánh hạnh, trình bày ngũ giới và bảo gã ra đi với lời dặn dò, khuyên nhủ gã phải tỉnh giác hộ phòng.

Người thợ săn cư xử với Bồ-tát như cách người ta tôn trọng một bậc thầy vậy. Gã đi nhiễu quanh ngài ba lần hướng về phía hữu, đảnh lễ bốn lần rất cung kính và gói ghém đám lông tơ vàng ấy trong ngọn lá sen rồi ra đi. Ba anh em chúa hươu tiễn đưa gã đi một đoạn đường. Sau khi ăn uống xong, ba vị liền trở về với cha mẹ. Song thân vội hỏi ngài:

– Này con yêu Rohanta, cha mẹ đã nghe con bị bắt, làm sao con trở về được tự do đây?

Hai vị hỏi qua vần kệ:

119. Làm thế nào con được tự do,

Khi đời con suýt dứt đường tơ,

Sao người săn nọ cho con thoát,

Chiếc bẫy giăng kia đã phỉnh lừa?

Bồ-tát ngâm ba vần kệ đáp lời:

120. Citta đã giải thoát cho con,

Bằng những lời rung động tâm hồn,

Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,

Lời đưa trong sáng thật du dương.

121. Sutanā đã giải thoát cho con,

Bằng những lời rung động tâm hồn,

Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,

Lời đưa trong sáng thật du dương.

122. Chú thợ kia đã giải thoát con,

Khi nghe lời nói thật mê hồn,

Thấm sâu tâm trí, xuyên vào dạ,

Lời lẽ thanh tao dịu ngọt tuôn.

Song thân của ngài bày tỏ lòng cảm ơn bằng một vần kệ:

123. Ta chúc người, gia quyến, vợ con,

Cầu mong các vị phước duyên tròn,

Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm,

Nay Rohanta được thoát nàn.

Bấy giờ, người thợ săn ra khỏi rừng đi về yết kiến vua, gã đảnh lễ ngài và đứng chầu một bên. Khi vua trông thấy gã liền bảo:

124. Lạp hộ, mau lên nói trẫm hay,

Nhà ngươi có phải muốn thưa vầy,

“Tâu Hoàng thượng, tấm da hươu chúa,

Nay tiểu thần dâng ngự lãm ngay.”

Hoặc giả da hươu ngươi chẳng có,

Để dâng, vì cớ sự gì đây?

[Thợ săn:]

125. Chúa hươu đã đến tận tay rồi,

Vào bẫy nằm sâu kín của tôi.

Bị bắt liền, song đôi lộc khác,

Thong dong chầu chực một bên ngài.

126. Xót thương, thần rợn cả làn da,

Từ mẫn lạ thường mới khởi ra:

“Nếu giết hươu này [thần nghĩ ngợi],

Đời thần ắt cũng hóa ra ma!”

[Nhà vua:]

127. Lạp hộ, bầy hươu ấy thế nào,

Phong tư, cốt cách chúng ra sao,

Màu lông, đặc tính gì trong chúng,

Xứng đáng lời kia tán tụng cao?

Vua cứ hỏi đi hỏi lại câu này mãi như thể một người tràn đầy kinh ngạc. Gã thợ săn đáp lời qua vần kệ:

128. Đôi sừng như bạc, dáng cao sang,

Với bộ lông, da sáng rỡ ràng,

Chân đỏ, mắt ngời sao chói lọi,

Toàn thân tuyệt mỹ giữa trần gian.

Trong lúc vừa ngâm kệ, gã vừa đem đặt vào lòng bàn tay vua một nắm lông tơ vàng ánh của Bồ-tát, và qua một vần kệ khác, gã trình bày sơ lược đặc tính của các hươu này:

129. Phong tư, cốt cách chúng như vầy,

Tâu Chúa công, là đám lộc này,

Chúng vẫn tìm mồi nuôi phụ mẫu,

Thần không đem được chúng về đây.

Qua những lời này, gã miêu tả các đức tính của Bồ-tát, chú hươu em Citta và cô bé hươu non Sutanā, rồi nói thêm điều này:

– Tâu Đại vương, hươu chúa cho tiểu thần một nắm lông, lại bảo thần thay thế địa vị ngài ấy mà thuyết pháp trước hoàng hậu qua mười vần kệ về cách thực hành bổn phận chân chánh của nhà vua.

Nghe xong, vua sai người tắm gội, thay đồ mới cho gã, rồi đặt gã thợ săn lên chiếc vương tòa được chạm cẩn với bảy loại châu báu, còn chính vua cùng hoàng hậu ngồi trên một bảo tòa thấp hơn đặt ở một bên, cung kính chắp tay, thỉnh cầu gã thuyết giảng. Người thợ săn thuyết giảng như vầy:

Tâu Hoàng thượng, đối với song thân,

Xin thực hành đường lối chánh chân,

Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,

Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Với đàn thê tử, tấu Quân vương,

Xin thực hành đường lối chánh chân,

Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,

Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Đại vương với thân hữu, quần thần,

Xin thực hành đường lối chánh chân,

Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,

Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Trong bước lãng du hoặc chiến trường,

Thực hành đường lối sống thuần lương,

Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh,

Thiên giới sẽ về, tấu Đại vương.

Trong làng, thị trấn, tấu Quân vương,

Xin thực hành đường lối chánh chân,

Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,

Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Mọi miền quốc độ, tấu Quân vương,

Xin thực hành đường lối chánh chân,

Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,

Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Với các Sa môn, Bà-la-môn,

Thực hành đường lối sống Hiền nhân,

Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh,

Thiên giới sẽ về, tấu Đại vương.

Với loài cầm thú, tấu Quân vương,

Xin thực hành đường lối chánh chân,

Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,

Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Xin thực hành chân chánh, Đại vương,

Từ đây nguồn hạnh phúc tuôn tràn,

Nhờ đi theo cuộc đời chân chánh,

Chúa thượng sẽ lên cõi ngọc đường.

Hộ phòng tỉnh giác, tấu Quân vương,

Tiến bước trên đường lối thiện lương,

Thiên chủ, chư thiên cùng giáo sĩ,

Từ lâu đã đạt cõi thiên đường.

Ngàn xưa đây chính các phương ngôn,

Đi đúng theo đường lối Trí nhân,

Thiên nữ được tràn đầy hạnh phúc,

Tự mình thăng tiến cõi thiên đường.

Người thợ săn đã thuyết pháp như trên theo cách Bồ-tát đã giảng bày cho gã với tài năng của một bậc Giác ngộ, chẳng khác nào người đem từ bầu trời xuống trần thế cả dải thiên hà kia. Hội chúng gồm đủ ngàn giọng nói đồng reo hò tán thán. Lòng khát khao của hoàng hậu đã được thỏa mãn lúc bà nghe lời thuyết pháp ấy. Vua đầy hoan hỷ liền ngâm các vần kệ này khi ngài ban thưởng người thợ săn đại vinh hoa phú quý:

130. Nạm ngọc vòng tai, trẫm muốn ban,

Tặng khanh cùng với sáu cân vàng,

Xinh tươi bảo tòa như hoa tấm,

Với nệm, nằm chen cả bốn hàng.

131. Hai vợ cùng giai cấp xứng đôi,

Trâu bò thường đúng một trăm rồi,

Trẫm nguyền sẽ trị dân công chính,

Mãi mãi, ân nhân của trẫm ôi!

132. Cho vay, cày ruộng hoặc kinh doanh,

Hễ đó là nghề nghiệp của khanh,

Trẫm thấy khanh không làm việc ác,

Song nhờ đó cấp dưỡng gia đình.

Khi nghe vua nói những lời này, người ấy đáp:

– Tiểu thần không có nhà cửa hay gia đình gì nữa, xin Chúa thượng cho phép tiểu thần được làm ẩn sĩ khổ hạnh.

Sau khi được vua chấp thuận, người ấy đem mọi vật vua ban thưởng trọng hậu ấy về cho vợ con, gia đình xong rồi lại ra đi lên vùng Tuyết Sơn. Nơi đây, người ấy sống theo đời khổ hạnh, tu tập tám thiền chứng và được sinh lên cõi Phạm thiên. Còn vua vẫn tuân hành lời giáo huấn của Bồ-tát nên về sau lên cộng trú với hội chúng chư thiên dục giới. Lời giáo huấn ấy tồn tại cả ngàn năm sau nữa.

***

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, xưa kia cũng như bây giờ, Ānanda hy sinh tính mạng vì Ta.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Channa (Xa-nặc) là người thợ săn, Sāriputta (Xá-lợi-phất) là vua, một Tỷ-kheo-ni là Hoàng hậu Khemā, hai người trong hoàng tộc là mẹ cha của hươu chúa, Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc) là Sutanā, Ānanda (A-nan) là Citta, dòng họ Sākya (Thích-ca) này là đàn hươu tám mươi ngàn con và Ta chính là lộc vương Rohanta.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.