Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§498. CHUYỆN ĐÔI BẠN CITTA VÀ SAMBHŪTA (Citta-Sambhūta-jātaka)[5] (J. IV. 390)

Các nghiệp người làm, quả sẽ mang...

Chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai người bạn đồng tu của Tôn giả Mahākassapa (Đại Ca-diếp) sống rất hòa hợp với nhau.

Chuyện kể rằng đôi bạn này vô cùng thân thiết, phân chia mọi thứ cùng nhau hết sức công bằng, ngay cả khi đi khất thực, hai vị cũng cùng đi và cùng trở về với nhau, hai vị không hề rời nhau.

Trong pháp đường, Tăng chúng đang ngồi tán thán về tình bằng hữu ấy thì bậc Đạo sư bước vào, hỏi các vị đang bàn luận chuyện gì khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài đáp:

– Này các Tỷ-kheo, tình bạn này chỉ trong một đời sống chẳng có gì kỳ lạ cả, vì các bậc Trí nhân ngày xưa đã giữ được tình bằng hữu vững bền suốt cả ba, bốn đời.

Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, trong quốc độ Avanti, tại kinh thành Ujjenī, Đại vương Avanti đang trị vì dân chúng. Lúc ấy, Bồ-tát ra đời tại một làng Caṇḍāla (Chiên-đà-la) ở ngoại thành Ujjenī. Một người khác được sinh làm con trai bà dì của ngài. Một cậu bé tên là Citta, cậu kia tên là Sambhūta. Khi hai cậu trưởng thành thì đã học được nghề gọi là quét bằng chổi của dòng họ Chiên-đà-la. Một ngày nọ, hai cậu nghĩ rằng mình sẽ đi trình diễn nghề này tại cổng thành Ujjenī, thế là một cậu biểu diễn tại Bắc môn, một cậu tại Đông môn.

Bấy giờ, trong kinh thành này có hai cô gái giỏi nghề xem tướng, một cô là con gái của một thương nhân và cô kia là con của một vị tế sư. Hai cô gái ấy đi vui trong công viên, sau khi bảo gia nhân đem theo thực phẩm đủ loại cứng, loại mềm, vòng hoa hương liệu, ngẫu nhiên một cô đi ra cổng phía Bắc và một cô ra cổng phía Đông. Khi thấy hai thanh niên Chiên-đà-la đang biểu diễn tài nghệ, hai cô hỏi:

– Chúng là ai đây?

Rồi hai cô được cho biết đó là hai kẻ Chiên-đà-la. Hai cô bảo:

– Thấy điềm này xui xẻo lắm!

Và sau khi rửa mắt bằng nước hương thơm, cả hai đều đi về. Sau đó, dân chúng la lớn:

– Này bọn hạ đẳng tồi tàn kia, chúng bây đã làm chúng ta mất phần cơm rượu đáng lẽ được hưởng miễn phí đấy!

Chúng đánh đập hai anh em cùng họ ấy một trận nhừ tử, làm cả hai đau đớn ê chề. Khi hai người tỉnh dậy liền đi tìm nhau và kể cho nhau nghe tai họa đã đến cho mình, rồi lại kêu gào và cố nghĩ cách xem phải làm gì đây. Cả hai suy nghĩ: “Tất cả những sự đau khổ này đã giáng xuống chúng ta chỉ vì dòng giống ta sinh ra. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm kẻ Chiên-đà-la nữa mà chúng ta phải giấu tung tích dòng họ để rồi đi tới Takkasilā, giả dạng các nam tử Bà-la-môn và học tập tại đó.”

Sau khi đã quyết định như vậy, cả hai cùng đến đó học tập với một vị giáo sư danh tiếng lẫy lừng. Thiên hạ đồn vang khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ) rằng có hai nam tử Chiên-đà-la đang làm thư sinh và giấu giếm tung tích gia tộc mình. Trí giả Citta học tập thành công, song chàng Sambhūta thì không được như vậy.

Một ngày kia, có người dân làng mời vị giáo sư ấy với ý định cúng dường thực phẩm cho các Bà-la-môn. Bấy giờ, do ngẫu nhiên, mưa suốt đêm ấy làm ngập lụt mọi hang động trên đường đi. Sáng sớm hôm sau, vị giáo sư gọi Trí giả Citta vào và bảo:

– Này con, hôm nay thầy không đi được, vậy con đi cùng các nam tử kia, rồi làm lễ chúc phước lành và khi con ăn thực phẩm của mình xong, hãy mang về những món để dành cho thầy!

Do đó, chàng đem các thanh niên Bà-la-môn khác cùng lên đường. Trong khi các thanh niên tắm rửa và súc miệng, dân chúng dọn món cháo gạo đã chuẩn bị sẵn để mời khách quý và bảo:

– Để cho nó nguội đi.

Trước khi cháo nguội, các thanh niên đã đến ngồi xuống. Dân chúng dâng nước cúng dường, rồi đặt các bát cháo trước mặt họ. Trí óc Sambhūta có hơi trì độn nên tưởng cháo đã nguội liền múc một hớp bỏ vào miệng, song nó như viên sắt rực đỏ làm phỏng miệng chàng. Trong lúc hoảng sợ, chàng quên mất vai trò của mình liền liếc qua Trí giả Citta và nói bằng ngôn ngữ của dân Chiên-đà-la:

– Phỏng rồi, phỏng rồi!

Chàng kia quên mất bản thân mình nên đáp lại theo ngôn ngữ của họ:

– Nhổ ra, nhổ ra mau!

Nghe thế, các thanh niên nhìn nhau bảo:

– Loại ngôn ngữ gì thế này?

Lúc ấy, Trí giả Citta nói lời chúc lành cho tất cả. Khi các chàng trai kia về nhà, họ tụ tập thành tụm năm, tụm ba và ngồi bàn luận về những từ ngữ đã được dùng kia. Khi nhận ra đó là ngôn ngữ của bọn Chiên-đà-la, họ kêu to:

– Quân hạ đẳng tồi tàn kia! Chúng bây đã lừa dối cả bọn ta, lâu nay cứ giả dạng làm Bà-la-môn!

Rồi họ đánh đập hai vị ấy. Có một người tốt bụng xua đuổi hai vị ra và nói:

– Đi ngay, vết nhục nằm trong huyết thống kia! Phải đi ngay, đến đâu đó mà làm ẩn sĩ khổ hạnh!

Rồi các thanh niên Bà-la-môn trình với vị giáo sư rằng đấy là hai kẻ Chiên-đà-la giả dạng. Hai chàng đi vào rừng, sống đời sống khổ hạnh tại đó, sau một thời gian chết đi, họ tái sanh làm hai chú nai con bên bờ sông Nerañjarā (Ni-liên-thiền). Từ lúc sinh ra, chúng luôn luôn ở bên nhau. Một ngày kia, sau khi chúng ăn xong, một người thợ săn chợt thấy chúng dưới một gốc cây đang ngồi nhai lại [thức ăn], âu yếm vuốt ve nhau rất hạnh phúc, đầu sát đầu, mõm kề mõm, sừng bên sừng. Gã liền phóng lao tới, giết trọn luôn cả hai bằng nhát lao ấy.

Sau đó, chúng tái sanh làm con của chim ưng biển trên bờ Nerbudda (Niết-bút). Cũng tại đó, chúng lớn lên, sau khi ăn xong lại ôm ấp, đầu sát đầu, mỏ kề mỏ. Một kẻ bẫy chim trông thấy, bắt cả hai và giết đi.

Sau đó, Trí giả Citta tái sanh tại Kosambī, làm con vị tế sư, còn Trí giả Sambhūta tái sanh làm vương tử của Vua Uttarapañcāla. Ngay từ ngày được đặt tên, hai hài nhi ấy đã có khả năng nhớ lại các đời trước của mình. Song Trí giả Sambhūta không thể nào nhớ hết tất cả mà không bị gián đoạn, cậu chỉ nhớ đời thứ tư hoặc đời Chiên-đà-la thôi, còn Trí giả Citta lại nhớ đủ cả bốn đời theo thứ tự.

Khi Citta được mười sáu tuổi, chàng xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, tu tập làm phát khởi thắng trí do thiền định và an trú trong hỷ lạc thiền định. Còn Trí giả Sambhūta, sau khi phụ vương băng hà liền được phong chiếc lọng trắng trên đầu. Vào ngày lễ phong vương, giữa quần thần đông đảo, ngài làm một bài ca tức vị rồi rung cảm ngâm lên hai đoạn.

Khi quần thần nghe xong, các cung phi và nhạc công đều ca hát, bảo nhau:

– Đây là khúc đăng quang của đức vua chúng ta!

Dần dà với thời gian, dân chúng đều ca khúc hát ấy vì đó là đạo ca được vua yêu thích. Trí giả Citta đang an trú ở vùng Tuyết Sơn, tự hỏi không biết hiền đệ Sambhūta của ngài đã được giương chiếc lọng trắng ấy chưa. Khi nhận thấy việc đã xong, ngài suy nghĩ: “Ta không đủ sức giáo hóa một vị tân vương còn trẻ, song khi nào em ta già rồi, ta sẽ đến thăm và khuyên nhủ em ta đi làm ẩn sĩ khổ hạnh.”

Suốt năm mươi năm ngài không hề đi thăm viếng, và trong thời gian ấy, vua có đông con cái lên dần. Về sau nhờ thần lực của mình, Trí giả Citta phi hành đến vườn ngự uyển, đáp xuống ngồi trên bảo tòa, oai nghi như một bức tượng bằng vàng.

Vừa lúc ấy, một chàng trai kiếm củi vừa làm việc vừa hát khúc đạo ca ấy. Trí giả Citta gọi chàng trai lại gần, chàng tiến đến cung kính đảnh lễ rồi đứng chờ. Trí giả Citta bảo chàng:

– Từ sáng đến giờ, cậu chỉ hát khúc đạo ca ấy, thế cậu không biết khúc nào nữa chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ, con biết nhiều khúc ca lắm, song đây là những lời ca được đức vua yêu chuộng, vì thế con không hát khúc nào khác.

– Thế không có ai biết hát một điệp khúc đáp lại khúc ca của đức vua chăng?

– Thưa Tôn giả, con biết hát nếu con được dạy khúc ca ấy.

– Thế thì được, hễ khi nào đức vua hát hai khúc trên thì cậu hát khúc này làm khúc thứ ba đấy.

Rồi ngài ngâm một khúc và bảo:

– Bây giờ cậu hãy đi hát khúc này trước mặt đức vua, ngài sẽ hài lòng và quý trọng cậu lắm!

Chàng trai vội vàng chạy về tìm mẹ, bảo mẹ mặc cho chàng y phục thật tề chỉnh rồi đến cửa cung vua, nhờ người tâu lên rằng có một chàng trai xin được yết kiến để hát một khúc ca đáp lại lời đức vua. Vua bảo:

– Cho nó vào.

Khi chàng trai tiến lên, đảnh lễ xong, vua phán:

– Họ tâu rằng cậu muốn hát một khúc đáp lại lời trẫm có phải chăng?

Chàng trai đáp:

– Tâu Chúa thượng, đúng vậy, xin ngài triệu tập quần thần để cùng nghe!

Ngay khi quần thần tụ họp xong, chàng tâu:

– Tâu Chúa thượng, xin ca khúc hát của ngài trước, rồi thần sẽ xin hát lời đối lại.

Vua liền ngâm đôi vần kệ:

24. Các nghiệp người làm, quả sẽ mang,

Và còn tích tập qua thời gian,

Nghiệp nào mà lại không sinh quả,

Thấy Sambhūta đại lực tràn,

Điều ấy đạt thành do quả phước,

Sinh từ các nghiệp bản thân mình.

25. Các nghiệp người làm, quả sẽ mang,

Và còn tích tập qua thời gian,

Nghiệp nào mà lại không sinh quả,

Citta cũng y vậy phải chăng?

Tâm ý người này được thỏa mãn,

Giống như tâm ý trẫm từng thành?

Khúc đạo ca trên vừa chấm dứt, chàng trai liền đáp vần thứ ba:

26. Thiện nghiệp chóng chầy đều đạt quả,

Nghiệp nào mà chẳng quả lai sinh,

Không gì vô ích tâu Hoàng thượng,

Xin ngắm Citta tại cổng thành,

Chẳng khác quân vương, tâm vị ấy,

Đã đem hỷ lạc đến cho mình.

Nghe lời này, vua lại ngâm vần kệ thứ tư:

27. Vậy có phải chăng chính Citta,

Hay chàng nghe được chuyện ngày xưa,

Từ ngài, hay một người nào khác?

Ôi ngọt ngào thay khúc thánh ca!

Ta chẳng sợ gì, ta sẽ thưởng,

Ngôi làng hay tặng vật làm quà.

Tiếp theo, chàng trai ngâm vần kệ thứ năm:

28. Hạ thần nào có phải Citta,

Song chuyện ấy thần được biết qua,

Chính một Hiền nhân vừa dạy bảo:

“Đi ngâm lời hát đối dâng vua,

Rồi chàng sẽ được ngài ban thưởng,

Tay của ngài ân nghĩa đậm đà.”

Nghe lời này, vua suy nghĩ: “Chắc hẳn đó là hiền huynh Citta của ta rồi, ta muốn đi tìm ngài ngay.” Thế là vua ra lệnh cho quần thần qua hai vần kệ sau:

29. Các vương xa hãy thắng yên cương,

Chạm trổ tinh vi, đẹp tuyệt trần,

Đem buộc cân đai vào bảo tượng,

Điểm trang vòng cổ sáng huy hoàng.

30. Quần thần hãy đánh trống liên hoan,

Bảo thổi tù và, ốc dậy vang,

Chuẩn bị vương xa nhanh bậc nhất,

Bởi vì trẫm muốn sớm lên đàng,

Hôm nay tìm thảo am cô tịch,

Yết kiến Hiền nhân trước tọa sàng.

Vua nói vậy xong liền ngự lên vương xa lộng lẫy và vội vàng đến ngay cổng ngự viên. Tại đó, ngài dừng xa giá và đến gần Trí giả Citta, đảnh lễ rất cung kính rồi ngồi xuống một bên, lòng tràn ngập hân hoan, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

31. Thật quý thay là thánh khúc xưa,

Trẫm từng ca hát thật say sưa,

Trong khi dân chúng đông dồn dập,

Quần tụ chung quanh chật cả nhà,

Nay đến đây xin chào thánh giả,

Hân hoan, hạnh phúc ngập tâm ta.

Từ lúc tái ngộ Trí giả Citta, vua hoan hỷ ra lệnh làm mọi sự cần thiết và truyền chuẩn bị bảo tòa dành cho vị hiền huynh, rồi ngài ngâm vần kệ thứ chín:

32. Đúng pháp là đem lễ cúng dâng,

Sàng tọa, nước mát, dầu xoa chân,

Và thêm thực phẩm cùng nhiều món,

Ngài thọ nhận cho, trẫm ân cần!

Sau lời mời ngọt ngào này, vua ngâm vần kệ khác để tặng bạn hiền một nửa giang san của mình:

33. Hãy để họ làm chỗ trú thân,

Cho ngài trú thoải mái nhiều hơn,

Hãy cho phép nữ tỳ hầu hạ,

Cơ hội này ngài hãy đỡ nâng,

Và cả hai ta cùng góp sức,

Hầu cai trị nước, giúp muôn dân.

Khi nghe những lời này, Trí giả Citta thuyết giáo cho vua qua sáu vần kệ:

34. Hỡi Đại vương, nhìn quả ác hành,

Thấy bao lợi lạc thiện hành sinh,

Ta mong điều ngự thân tu tập,

Con, của, không lôi cuốn trí mình.

35. Trăm năm tròn cuộc sống người đời,

Năm tháng theo nhau kế tiếp trôi,

Khi đến hạn kỳ, người héo úa,

Tựa hồ lau sậy nát tan thôi.

36. Thế nghĩa gì hoan lạc, ái ân,

Nghĩa gì săn đuổi cảnh giàu sang?

Nhiều con, nghĩa lý gì nên biết,

Hỡi Đại vương, ta thoát buộc ràng.

37. Ta biết vì đây chính thật chân,

Ta không qua khỏi tử ma thần,

Nghĩa gì vàng bạc và ân ái,

Khi bạn đến thời phải mạng vong?

38. Dòng giống hạ đẳng bước hai chân,

Hạ liệt Chiên-đà nhất thế nhân,

Do chính nghiệp mình tạo xấu ác,

Nhập thai hạ tiện, đó tiền thân.

39. Tại Avanti, bạn trẻ Chiên-đà,

Là cặp nai vàng bến nước xưa,

Đôi chú chim ưng bờ Niết-bút,

Giờ đây giáo sĩ đó làm vua.

Sau khi đã nói rõ các tiền thân hạ liệt của mình trong quá khứ như vậy, tại đây trong đời hiện tại này, ngài tuyên thuyết tính vô thường của mọi pháp hữu vi và ngâm bốn vần kệ làm phát khởi tinh tấn lực:

40. Đời người ngắn ngủi, chết cùng đường,

Già cả không nơi chốn náu nương,

Này hỡi Pañcāla thực hiện,

Những gì ta khuyến nhủ Quân vương,

Tránh xa tất cả hành vi ác,

Đưa đẩy vào đau khổ đoạn trường.

41. Đời người ngắn ngủi, chết sau cùng,

Già cả không nơi chốn trú thân,

Này hỡi Pañcāla, thực hiện,

Những gì ta khuyến nhủ Quân vương,

Tránh xa tất cả hành vi ác,

Mang đến khổ đau, quả chẳng lường.

42. Nhân thế ngắn sao, chết cuối cùng,

Người già không chốn để nương thân,

Pañcāla hỡi, xin thành tựu,

Những việc ta khuyên nhủ Đại vương,

Xin hãy xa lìa bao vọng nghiệp,

Nhiễm ô, toàn ác dục tham sân.

43. Đời người ngắn ngủi, chết vong thân,

Bệnh, lão làm suy thế lực dần,

Ta chẳng làm sao ra thoát được,

Pañcāla xin thực hiện lời răn,

Tránh xa tất cả hành không thiện,

Đưa đẩy vào trong quả khổ đau.

Vua rất hoan hỷ khi nghe bậc Đại sĩ khuyến giáo liền đáp lời qua ba vần kệ:

44. Lời kia Tôn giả, quả toàn chân,

Ngài dạy lời như bậc Thánh nhân,

Song dục tham ta đều khó bỏ,

Với người như trẫm, chúng vô cùng.

45. Như voi chìm xuống vũng bùn nhơ,

Không thể bò lên dẫu thấy bờ,

Trẫm cũng lún sâu bùn dục lạc,

Nên không theo nổi đạo Tỷ-kheo!

46. Như mẹ như cha dạy bảo con,

Thành người sống hạnh phúc, hiền lương,

Dạy ta hạnh phúc làm sao đạt,

Xin chỉ cho ta bước đúng đường.

Sau đó, bậc Đại sĩ bảo nhà vua:

47. Ngài không thể bỏ, hỡi Quân vương,

Các dục tham đây cũng thế thường,

Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng,

Trị sao dân chúng thấy công bằng.

48. Gửi sứ thần đi khắp bốn phương,

Mời Sa-môn với Bà-la-môn,

Cúng dường thức uống ăn đầy đủ,

Y áo và nơi nghỉ ngơi an.

49. Đem thức uống ăn để đãi đằng,

Các Sa-môn với Bà-la-môn,

Tâm đầy thành tín khi dâng cúng,

Ban phát, hưởng phần theo khả năng.

Người ấy sẽ không gây lầm lỗi,

Sau này lên đến cõi thiên đàng.

50. Song nếu vây quanh bởi má hồng,

Dục tham ngài thấy quá say nồng,

Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,

Và hát hò lên giữa đám đông.

51. “Dưới trời không mái để che thân,

Bầy chó xưa cùng nó ngủ lăn,

Mẹ nó cho ăn lúc bước vội,

Mà nay làm một vị vương quân.”

Đó là lời khuyến giáo của bậc Đại sĩ, rồi ngài lại bảo:

– Ta đã khuyên nhủ Đại vương rồi. Bây giờ Đại vương có muốn làm người tu khổ hạnh hay không là tùy ý Đại vương, song ta sẽ tiếp tục theo đúng nghiệp quả của chính ta làm.

Sau đó, ngài bay vụt lên không đi về vùng Tuyết Sơn, bụi bặm trên đôi chân ngài rơi rớt trên đầu vua. Còn phần vua trông thấy cảnh này, lòng vô cùng xúc động liền giao quốc độ cho thái tử, triệu tập quân sĩ thẳng tiến về vùng Tuyết Sơn. Khi bậc Đại sĩ nghe vua đến liền bước ra cùng những Hiền nhân đồ đệ của ngài đón tiếp vua và truyền giới cho vua sống đời Phạm hạnh, rồi dạy vua phương tiện biến xứ[6] (kasiṇa) làm phát khởi thiền định. Vua tu tập chứng đắc thần thông do thiền định, vì vậy cả hai vị đều cùng được sinh lên cõi Phạm thiên khi mạng chung.

***

Sau khi bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, các bậc Trí nhân ngày xưa giữ vững tình bằng hữu lâu dài qua ba, bốn đời.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Ānanda là Trí giả Sambhūta và Ta chính là Trí giả Citta.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.