Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§497. CHUYỆN BẬC HIỀN TRÍ MĀTAṄGA (Mātaṅgajātaka)[1] (J. IV. 375)

Lão từ đâu đến, đắp y dơ...

Chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Vua Udena.

Vào thời ấy, Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja phi hành từ Kỳ Viên qua không gian, thường đến tránh cơn nóng ban ngày trong vườn ngự uyển của Vua Udena, nước Kosambī. Chuyện kể rằng, Tôn giả này trong một đời trước đã làm vua và một thời gian dài thọ hưởng cảnh vinh hoa phú quý trong chính vườn ngự uyển kia cùng những người hầu cận. Nay nhờ công đức thiện nghiệp ông đã tạo được nên ông thường đến tọa thiền tại đây, tránh cơn nóng ban ngày và hưởng lạc trong [Thánh] quả nhập thiền.

Một hôm, ông vào chỗ đó ngồi dưới một cây sāla đang trổ đầy hoa thì Vua Udena đi vào vườn với một đoàn tùy tùng đông đảo. Suốt bảy ngày trước, vua uống rượu say nên muốn vào ngự viên giải trí. Vua nằm trên vương sàng, trên cánh tay của một nàng cung nữ và được dỗ dành cho mau chóng ngủ thiếp đi. Sau đó, các nữ nhạc công ngồi ca hát quanh vua đặt nhạc khí xuống, vừa đi quanh quẩn trong vườn ngự uyển vừa nhặt hoa trái. Họ thấy vị Trưởng lão ấy nên bước đến đảnh lễ vị ấy và ngồi xuống. Vị Trưởng lão ngồi tại chỗ đó thuyết pháp cho họ nghe. Nàng cung nữ kia đổi cánh tay để đánh thức vua dậy, vua hỏi:

– Các tiện nữ kia đi đâu cả rồi?

Nàng đáp:

– Họ đang ngồi vòng quanh một nhà tu khổ hạnh.

Vua nổi cơn thịnh nộ, đi đến gặp vị Trưởng lão và mạ lỵ, phỉ báng:

– Đi ngay, ta muốn kẻ kia phải bị bầy kiến xé xác ra!

Thế là trong cơn thịnh nộ, vua truyền đem một thúng kiến đỏ đến rải tung trên thân thể vị Trưởng lão. Song vị này đã bay lên không gian và thuyết giáo cho vua, sau đó trở về Kỳ Viên hạ xuống trước cổng hương phòng. Đức Như Lai hỏi:

– Ông từ đâu đến?

Trưởng lão ấy kể lại sự việc trên. Ngài bảo:

– Này Bhāradvāja, đây không phải là lần đầu tiên Vua Udena nổi sân hận và lăng mạ người tu hành mà trước kia cũng đã như thế.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thời, khi Vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba-la-nại, bậc Đại sĩ sinh làm con trai của một người Chiên-đà-la[2] ở ngoại thành, họ đặt tên ngài là Mātaṅga (chú voi). Sau đó, ngài thông đạt trí tuệ, danh tiếng lan truyền khắp nơi được gọi là Hiền trí Mātaṅga.

Lúc bấy giờ, có một nàng tên là Diṭṭhamaṅgalikā (người thấy các điềm lành), là con gái của một vị thương nhân ở thành Ba-la-nại, cứ một hoặc hai tháng một lần, cô thường vào ngự viên vui đùa cùng đông đảo bạn đồng hành.

Một ngày kia, bậc Đại sĩ đi vào thành liền gặp Diṭṭhamaṅgalikā, ngài bước sang một bên rồi ước muốn và đứng đó. Từ sau bức màn, Diṭṭhamaṅgalikā trông thấy ngài và hỏi:

– Ai đó?

– Thưa cô nương, một kẻ Chiên-đà-la.

Nàng đáp:

– Hừ, ta đã thấy nhằm một vật mang điềm xui xẻo.

Rồi nàng rửa mắt bằng nước hoa và quay đi. Những người đi với nàng la lớn:

– Này tên bần cùng hèn hạ kia, mày đã làm chúng ta mất phần cơm rượu miễn phí hôm nay.

Trong cơn giận dữ, họ lấy tay chân đấm đá Hiền trí Mātaṅga, khiến cho ngài bất tỉnh rồi bỏ đi. Sau một lát, ngài hồi tỉnh và nghĩ thầm: “Đám người đi theo Diṭṭhamaṅgalikā đã vô cớ đánh đập ta, một kẻ vô tội. Ta quyết sẽ cố gắng cho đến khi ta chiếm được nàng, chẳng để mất nàng.”

Với quyết định này, ngài bước đi đến trước cửa nhà cha nàng và nằm xuống. Khi đám gia nhân hỏi tại sao ngài nằm đó, ngài đáp:

– Ta chỉ muốn được nàng Diṭṭhamaṅgalikā mà thôi.

Một ngày trôi qua, rồi hai, ba, bốn, năm, sáu, quyết định của chư Bồ-tát thường thường không sao lay chuyển được, vì thế vào ngày thứ bảy, họ phải đem cô gái ra trao cho ngài. Sau đó, nàng bảo:

– Nào đứng lên chàng ơi, ta cùng đi về nhà chàng đi!

Song ngài đáp:

– Cô nương ôi, ta vừa bị bọn người nhà nàng đánh đập cả người, giờ ta yếu lắm, nàng hãy cõng ta trên lưng và mang đi!

Nàng làm theo lời ấy ngay trước mặt mọi người dân trong thành và nàng cứ tiến dần từ thành đô đi đến vùng tiện dân Chiên-đà-la cư trú.

Ở đó trong vài ngày, bậc Đại sĩ giữ nàng lại mà không chút nào xâm phạm các luật lệ của giai cấp. Rồi ngài suy nghĩ: “Chỉ bằng cách từ bỏ thế tục, chứ không còn cách nào khác để ta mới có thể cho cô nương này thấy cảnh vinh hiển tột bậc và làm cho nàng hưởng những lễ vật cao sang nhất.” Vì thế, ngài bảo nàng:

– Này nương tử, nếu ta không vào rừng kiếm ăn thì chúng ta không thể sống được. Vậy ta muốn vào rừng, nàng hãy đợi cho đến khi ta về, đừng có lo âu gì cả!

Ngài ra lệnh cho gia nhân không được xao nhãng đối với nàng, rồi đi vào rừng, sống cuộc đời của người tu hành, rất nhiệt tâm tinh tấn. Vì vậy, trong bảy ngày, ngài tu tập và thành tựu tám thiền chứng và năm thắng trí. Sau đó, ngài suy nghĩ: “Nay ta đã có thể bảo vệ Diṭṭhamaṅgalikā được rồi.”

Nhờ thần thông lực, ngài trở về và hạ xuống cổng làng Chiên-đà-la, từ đó đi đến nhà Diṭṭhamaṅgalikā. Khi nghe tin ngài trở về, nàng bước ra và òa lên khóc:

– Tại sao chàng bỏ thiếp và đi tu khổ hạnh?

Ngài đáp:

– Này nương tử, đừng lo gì cả. Nay ta có thể làm cho nàng vinh quang hơn trước kia nữa. Vậy nàng có chịu nói lên giữa mọi người đúng lời này: “Phu quân ta không phải là Hiền trí Mātaṅga mà là một đấng Đại Phạm thiên chăng?”

– Thưa phu quân được, thiếp sẽ nói điều ấy.

– Tốt lành thay! Khi dân chúng hỏi: “Chồng nàng đâu?” Nàng trả lời: “Chàng đã đi lên Phạm thiên giới.” Nếu họ lại hỏi: “Thế khi nào chàng về?” Nàng phải đáp: “Trong bảy ngày nữa chàng sẽ về, xuyên qua mặt trăng tròn đầy của đêm rằm.”

Nói xong những lời này, ngài đi vào vùng Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ, Diṭṭhamaṅgalikā nói những điều nàng đã được căn dặn tại khắp nơi ở Ba-la-nại, giữa quần chúng đông đảo. Dân chúng tin ngay lời ấy, bảo nhau:

– Ngài là đấng Đại Phạm thiên nên đã không đến thăm viếng Diṭṭhamaṅgalikā, nhưng mọi việc sẽ như vầy, như vầy.

Vào đêm trăng rằm, trong lúc vầng trăng đang lên giữa bầu trời, Bồ-tát hóa thành một vị Phạm thiên ở giữa luồng ánh sáng tràn ngập vương quốc Kāsi và kinh thành Ba-la-nại đến mười hai do-tuần, băng ngang qua mặt trăng và giáng trần. Ngài đi vòng quanh kinh thành Ba-la-nại ba lần, được rất nhiều dân chúng tỏ lòng sùng bái bằng các vòng hoa thơm và hương liệu khác rồi quay mặt về hướng ngôi làng Chiên-đà-la.

Những người ngưỡng mộ Phạm thiên tụ tập cùng nhau đi về phía làng Chiên-đà-la ấy. Họ bao phủ căn nhà của Diṭṭhamaṅgalikā bằng màu vải trắng tinh, lau sàn nhà bằng bốn loại hương thơm, rải hoa khắp nơi, đốt trầm hương, trương một tấm vải làm mái che, đặt một bảo tòa rực rỡ, thắp đèn dầu thơm, rắc lớp cát mịn như phiến bạc rồi treo đèn, kết hoa và cờ xí rợp trời.

Trước gian nhà được trang hoàng lộng lẫy thế kia, bậc Đại sĩ bước vào và ngồi một lát trên bảo tòa. Lúc ấy, Diṭṭhamaṅgalikā đang kỳ kinh nguyệt. Ngài lấy ngón tay trỏ rờ vào rốn nàng và nàng thụ thai. Sau đó, bậc Đại sĩ bảo nàng:

– Này hiền thê, nàng đã thụ thai, nàng sẽ sinh ra một con trai. Nàng và con trai nàng sẽ được phú quý tột bậc. Nước rửa chân nàng sẽ được vua chúa dùng làm lễ Quán đảnh phong vương ở cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ). Nước nàng tắm sẽ là thứ tiên dược trường sinh bất tử, người nào rảy nước đó lên đầu sẽ thoát khỏi mọi thứ bệnh tật và không gặp điềm xui xẻo. Những người nào được đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ nàng sẽ dâng lên một ngàn đồng tiền vàng. Những người nào được đứng gần đủ để có thể nghe nàng nói và kính lễ nàng sẽ dâng lên một trăm đồng. Những người nào được đứng để trông thấy nàng và kính lễ nàng sẽ dâng một đồng kahāpaṇa.[3] Vậy nàng hãy tỉnh giác giữ mình cẩn thận!

Cùng với lời khuyến giáo này, trước mặt một đám đông, ngài đứng dậy và lại đi vào mặt trăng. Những người sùng bái Phạm thiên tụ tập nhau lại và đứng đó suốt đêm. Sáng hôm sau, họ mời nàng lên chiếc kiệu bằng vàng và đội nàng lên đầu, rước nàng vào kinh đô. Một đám đông dân chúng chạy đến phía nàng kêu lớn:

– Kìa, hoàng hậu của đấng Phạm thiên!

Rồi họ cúng bái nàng với các thứ hoa thơm và nhiều thứ nữa, những người nào được phép đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ đều dâng lên túi tiền một ngàn đồng. Người nào đứng gần nàng và kính lễ thì dâng một trăm. Người nào đứng đủ nhìn thấy được nàng và kính lễ thì dâng một đồng kahāpaṇa. Cứ vậy, họ tiến dần khắp thành Ba-la-nại rộng mười hai do-tuần và thu được tổng số một trăm tám chục triệu đồng.

Sau khi đi xung quanh thành như vậy, họ rước nàng vào nội thành, dựng lên một ngôi đình lớn vây màn chung quanh, mời nàng yên nghỉ tại đó giữa cảnh huy hoàng vinh quang như thế. Tới ngôi đình, họ bắt đầu xây bảy thành lũy và dựng một lâu đài bảy tầng, họ đã tạo được nhiều công đức.

Cũng trong ngôi đình ấy, Diṭṭhamaṅgalikā sinh hạ con trai. Vào ngày đặt tên hài nhi, các Bà-la-môn tụ họp nhau và đặt tên nó là Maṇḍavya (Trung Đình), vì nó được sinh ra tại đó. Độ mười tháng, lâu đài kia đã được xây xong, từ đó nàng vào ở trong lâu đài vô cùng vinh hiển và Vương tử Maṇḍavya lớn lên giữa cảnh huy hoàng tột bực.

Khi hài nhi được bảy tuổi, những bậc thầy danh tiếng nhất khắp toàn cõi Diêm-phù-đề tập hợp lại và dạy cậu ba tập Vệ-đà. Từ lúc mười sáu tuổi, cậu đã cúng dường thực phẩm cho các vị Bà-la-môn và thường xuyên có mười sáu ngàn Bà-la-môn thọ thực; các vị Bà-la-môn được cúng dường phẩm vật tại thành lũy thứ tư.

Bấy giờ vào một ngày hội lớn, dân chúng chuẩn bị một lượng lớn cháo sữa, rồi mười sáu ngàn Bà-la-môn ngồi tại thành lũy thứ tư dùng món cháo ấy cùng với món bơ tươi màu vàng óng ánh, nước đường pha mật ong đặc. Và chính vị vương tử trang điểm ngọc châu sáng rực rỡ, mang đôi hài vàng dưới chân, cầm chiếc gậy vàng ròng trong tay, vừa đi quanh vừa chỉ dẫn:

– Này bơ đây, mật ong đây!

Vào lúc ấy, Hiền trí Mātaṅga đang ngồi trong thảo am ở vùng Tuyết Sơn, và hướng tầm tứ vào việc xem xét những gì xảy ra cho con trai của nàng Diṭṭhamaṅgalikā. Khi nhận thấy cậu con trai đang đi lạc vào tà đạo, ngài suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ đi giáo hóa cho cậu bé kia và dạy cho nó biết cúng dường như thế nào để lễ vật bố thí ấy sẽ mang lại kết quả lớn.”

Ngài liền bay qua không gian đến hồ Anotatta, rửa mặt và súc miệng. Rồi khi đứng tại Manosilātala (thuộc vùng Tuyết Sơn), ngài khoác đôi tấm y được nhuộm vào, quấn thắt lưng quanh người rồi đắp phấn tảo y (áo may bằng vải cũ dơ lượm ở bãi rác hoặc mộ địa) ra ngoài, cầm bình bát đất, phi hành qua không gian đến thành lũy thứ tư ấy, tại nơi đó ngài hạ xuống ngay cạnh bố thí đường và đứng một bên. Đang lúc Maṇḍavya nhìn quanh quẩn, chợt thấy ngài liền kêu to:

– Lão từ đâu đến đây, hỡi kẻ khổ hạnh kia, lão giống một thứ yêu quỷ rác rưởi, xấu xí như vậy?

Rồi cậu ngâm vần kệ đầu:

  1. Lão từ đâu đến, đắp y dơ,

Người ngợm tồi tàn tựa quỷ ma,

Giẻ rách làm y quàng trước ngực,

Lão là ai, chẳng xứng phần quà?

Bậc Đại sĩ lắng nghe, rồi với lòng từ mẫn, ngài đáp lời cậu qua vần kệ thứ hai:

2. Vương tử, thức ăn đã sẵn bày,

Mọi người ăn uống hưởng no say,

Bọn ta, ngài biết thường sinh sống,

Bằng thứ tìm ra bởi gặp may,

Xin hãy ban cho người hạ tiện,

Hưởng phần thực phẩm còn thừa đây!

Tiếp theo Maṇḍavya ngâm vần kệ thứ ba:

3. Phần các La-môn hưởng phước ân,

Này đây thực phẩm chính tay dâng,

Bản thân lợi ích, thí thành kính,

Lão đứng chi đây? Hãy cút nhanh!

Chẳng có phần cho người hạ tiện,

Kẻ hèn kia hãy bước đi luôn!

Vì nghe thế, bậc Đại sĩ ngâm vần kệ:

4. Mọi nơi cao thấp họ gieo trồng,

Mong gặt quả trên đám ruộng đồng,

Chánh đạo này đây, xin bố thí,

Sau ngài xứng đáng hưởng phần công.

Sau đó, Maṇḍavya đáp kệ:

5. Ta biết đất ta muốn cấy trồng,

Những vùng xứng đáng hạt đâm bông,

La-môn quý tộc, thông kinh thánh,

Là đất lành phong phú ruộng đồng.

Rồi bậc Đại sĩ lại ngâm hai vần kệ:

6. Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,

Tham sân si, uống rượu say nhiều,

Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,

Là đất hoang cằn để hạt gieo.

7. Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,

Tham sân si, uống rượu say nhiều,

Người tâm không chứa sai lầm ấy,

Là đất tốt mềm để hạt gieo.

Bậc Đại sĩ cứ ngâm đi ngâm lại những lời kệ ấy mãi nên cậu trai nổi giận và kêu lớn:

– Lão này nói quàng xiên quá nhiều rồi, những người gác cổng đi đâu cả mà không tống cổ lão ra?

Rồi cậu ngâm kệ:

8. Này Bhaṇḍakucchi,[4] hỡi Upajjhāya!

Ta bảo, đâu rồi Upajotiya,

Trừng phạt lão này bằng gậy gộc,

Tên hèn hạ, tống cổ ngay ra!

Bọn gia nhân nghe tiếng cậu gọi liền chạy đến ngay, kính lễ cậu rồi hỏi:

– Tâu chúa công, chúng tiểu nô phải làm gì đây?

– Thế các ngươi không thấy tên hạ liệt tồi tàn này sao?

– Tâu chúa công, không, chúng tiểu nô không biết lão đã tới đây lúc nào, chắc chắn lão là tên lừa bịp xảo trá rồi!

– Vậy sao các ngươi còn đứng đó?

– Tâu chúa công, vậy chúng tiểu nô phải làm gì đây?

–Phải vả vào mồm, bẻ hàm lão ra, lấy roi gậy đánh cho nát lưng, trừng phạt lão đi. Tóm lấy tên khốn kiếp này, quăng lão xuống, tống ra khỏi đây ngay!

Song trước khi bọn chúng đến gần ngài, bậc Đại sĩ đã bay lên không, vừa đứng vững ở đó vừa ngâm kệ:

9. Phỉ báng Hiền nhân lợi ích bằng,

Với khi nuốt ngọn lửa đang hồng,

Hay là sắt cứng đưa răng cắn,

Đào núi mà dùng móng vuốt không.

Sau khi nói xong những lời này, bậc Đại sĩ vụt lên cao trong khi cậu trai và các Bà-la-môn ngơ ngác nhìn theo.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ để giải thích việc này:

10. Nói vậy, Mātaṅga Trí nhân,

Ẩn tu, nỗ lực đạt thuần chân,

Rồi ngài bay bổng trên không khí,

Trước mắt Bà-la-môn dõi theo.

Ngài quay mặt về hướng Đông, hạ xuống một đường phố với ý định làm cho dấu chân ngài được nhìn thấy nên ngài khất thực gần Đông môn. Lúc ấy, sau khi đã nhận được một số thực phẩm đủ loại, ngài ngồi xuống một sảnh đường và bắt đầu ăn.

Song các thần linh trong kinh thành chợt đến, thấy rằng người này đã nói năng như vậy làm phiền nhiễu vị Hiền nhân của họ là điều không thể dung thứ được nên vị thần cao niên nhất chụp lấy cổ Maṇḍavya và vặn tréo, các quỷ kia lại chụp lấy cổ các Bà-la-môn ấy và vặn luôn. Song vì thương cảm Bồ-tát, các vị ấy không giết Maṇḍavya, các vị bảo:

– Đó là con trai của ngài.

Và các vị chỉ hành hạ cậu ta thôi. Đầu của Maṇḍavya bị vặn tréo ra đằng sau vai, tay chân cậu cứng đờ, mắt trợn trừng như thể chết rồi, cậu nằm rũ liệt tại đó. Các Bà-la-môn kia quay cuồng vật vã, mồm chảy nước miếng tràn ra. Dân chúng đến báo tin cho Diṭṭhamaṅgalikā:

– Thưa phu nhân, có chuyện chẳng lành xảy ra cho vương tử!

Bà vội chạy đến thấy cậu con trai liền kêu lớn:

– Ôi, sao lại thế này?

Rồi bà ngâm kệ:

11. Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,

Kìa sao con duỗi cánh tay dài,

Bơ vơ mắt trắng dường như chết,

Kẻ hại con mình đó chính ai?

Khi ấy, những người đứng ngoài xem liền ngâm kệ nói cho bà biết chuyện kia:

12. Ẩn sĩ đây khoác áo dơ,

Tồi tàn người ngợm tợ yêu ma,

Y bằng giẻ rách quàng ngang ngực,

Chính kẻ hành hung quý tử bà.

Nghe vậy, bà suy nghĩ: “Chắc chắn đó là Hiền trí Mātaṅga, không ai khác có thần lực như vậy. Song một người thủy chung và đầy thiện ý đối với mọi loài, chẳng bao giờ lại bỏ đi để cho những người này phải chịu sự hành hạ thế kia, nay không biết ngài đã đi hướng nào?” Bà hỏi câu này qua vần kệ sau:

13. Về hướng đi nào, bậc Trí nhân?

Trả lời ta, hỡi các vương tôn!

Chúng ta đi chuộc cho lầm lỗi,

Để giúp con ta được tỉnh hồn.

Các chàng trai kia đáp lời bà theo cách này:

14. Bậc Hiền vụt hiện giữa không gian,

Như thể vầng trăng giữa tối rằm,

Đẹp mặt thay, ngài sùng chánh đạo,

Phương Đông theo hướng ấy lên đàng.

Khi họ đáp như thế, bà liền bảo:

– Ta quyết sẽ đi tìm phu quân ta.

Bà ra lệnh đem theo nhiều bình vàng và chén vàng, rồi được một nhóm tỳ nữ vây quanh, bà ra đi, tìm thấy nơi có dấu chân của ngài đã in xuống đất, bà cứ theo dấu chân này cho đến khi gặp ngài đang ngồi trên một chỗ kia và ăn cơm. Đi đến gần ngài, bà đảnh lễ rồi đứng im. Khi thấy bà, ngài đặt miếng cơm vào bát. Diṭṭhamaṅgalikā rót nước lên tay ngài từ chiếc bình vàng, ngài lập tức rửa tay và súc miệng. Sau đó bà hỏi:

– Ai đã làm việc tàn ác này cho con trai của thiếp?

Và bà ngâm kệ:

15. Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,

Kìa sao con duỗi cánh tay dài,

Bơ vơ mắt trắng dường như chết,

Kẻ hại con mình đó chính ai?

Các vần kệ sau đây là lời đối đáp xen kẽ nhau giữa hai vị:

[Hiền trí Mātaṅga:]

16. Dạ-xoa có đại lực uy thần,

Theo ẩn sĩ nào hạnh tốt lành,

Chúng thấy con nàng sân, ác ý,

Khiến cho như vậy đối con nàng.

[Diṭṭhamaṅgalikā:]

17. Chính các dạ-xoa tạo việc này,

Xin ngài đừng giận thiếp nơi đây,

Thiếp đây sầu khổ vì con trẻ,

Theo đến, quy y dưới gót ngài.

[Hiền trí Mātaṅga:]

18. Tâm ta, hãy biết, chẳng tiềm tàng,

Từ trước đến giờ, ý hận sân,

Con trẻ không thông ba Thánh điển,

Vì đầy vọng tưởng, ngập kiêu căng.

[Diṭṭhamaṅgalikā:]

19. Con người có thể, hỡi Hiền nhân,

Bỗng chốc trí khôn hóa tối tăm,

Tha lỗi thiếp này, thưa Trí giả,

Bậc Hiền không để khởi hờn căm.

Bậc Đại sĩ được bà xoa dịu bằng lời lẽ như vậy liền đáp:

– Được, ta sẽ cho nàng thứ tiên dược trường sinh bất tử để đuổi bọn quỷ ma ấy đi xa.

Rồi ngài ngâm kệ:

20. Chút của thừa này, hãy lấy mang,

Cho Maṇḍa khốn khổ phần ăn,

Con nàng sẽ mạnh, mau bình phục,

Bọn quỷ tha mồi, được thoát thân.

Khi bà nghe những lời này của bậc Đại sĩ liền đưa chiếc bình bát vàng ra và nói:

– Xin phu quân hãy cho thiếp thuốc tiên bất tử ấy!

Bậc Đại sĩ đổ vào đó một ít cháo còn lại và bảo:

– Hãy đổ một nửa cháo này vào miệng con nàng, còn lại thì trộn với nước rồi đổ vào miệng các Bà-la-môn kia, chúng sẽ được bình phục!

Rồi ngài đứng lên đi về phía Tuyết Sơn. Bà mang bình ấy trên đầu và kêu:

– Ta đã được thuốc tiên bất tử rồi.

Khi về đến nhà, trước hết bà đổ một ít cháo vào miệng con trai bà. Dạ-xoa liền chạy trốn.

Maṇḍavya đứng dậy, phủi bụi bặm rồi hỏi:

– Cái gì đây mẹ?

– Con sẽ hiểu rõ những việc con đã làm. Này con, hãy lại đây xem tình cảnh của những người đáng cúng dường của con kìa!

Khi cậu nhìn thấy họ, lòng cậu đầy ân hận. Rồi mẹ cậu bảo:

– Này Maṇḍavya yêu quý, con thực là kẻ ngu si, không biết bố thí cách nào để của bố thí ấy mang lại kết quả tốt. Bọn này không xứng đáng với lòng hào phóng của con đâu, chỉ những vị nào như bậc Hiền trí Mātaṅga mới xứng đáng thôi. Từ nay về sau, đừng đem cho những người kém giới như bọn này mà chỉ nên bố thí cúng dường những người đức hạnh.

Rồi bà ngâm kệ:

21. Maṇḍavya, tiểu trí ngu đần,

Chẳng hiểu rõ gì là phước điền,

Con cúng dường bao người trọng tội,

Lũ người ô nhiễm, không điều thân.

22. Xiêm áo da dê, bện tóc dày,

Miệng như giếng cũ, để râu dài,

Hãy nhìn tư cách không lành thiện,

Đừng cúng kẻ ngu, trang phục vầy.

23. Vị nào dứt ái dục, si, sân,

Thành bậc A-la-hán, lậu dừng,

Nếu cúng Hiền nhân thanh tịnh ấy,

Người này hưởng quả lớn riêng phần.

Vậy từ nay về sau, con đừng bố thí cho hạng người thiếu giới hạnh như thế này mà chỉ nên bố thí cúng dường những người nào ở trên đời này đạt tám thiền chứng, là những nhà tu khổ hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn chân chính đã chứng năm thắng trí, các vị Độc Giác Phật. Này con, để mẹ đưa loại thuốc tiên bất tử này cho bọn gia nhân của ta đây và làm chúng bình phục.

Nói vậy xong, bà lấy miếng cháo thừa ấy đổ vào một bình nước và rảy lên miệng mười sáu ngàn Bà-la-môn kia. Mọi người đều đứng dậy và phủi hết bụi bặm.

Sau đó, vì các Bà-la-môn này đã phải nếm thức ăn thừa của một kẻ Chiên-đà-la nên bị các Bà-la-môn khác tống xuất ra khỏi giai cấp ấy. Đầy ô nhục, họ rời thành Ba-la-nại và đi về vương quốc Mejjha, tại đây họ ở chung với vua xứ đó. Còn Maṇḍavya vẫn ở chốn cũ.

Vào thời đó, có một Bà-la-môn tên là Jātimanta, là một người tu hành ở gần kinh thành Vettavatī trên bờ sông có cùng tên ấy, ông là kẻ rất kiêu mạn về dòng dõi của mình. Bậc Đại sĩ liền đến đó, quyết đập tan lòng kiêu mạn của ông ta. Ngài dựng am trú ngụ gần đó, sống ở phía thượng nguồn con sông.

Một hôm, sau khi xỉa răng xong, ngài thả cây tăm xuống dòng nước, cố ý để cho nó vướng vào búi tóc của Jātimanta. Vì vậy, trong khi ông ấy đang tắm trong dòng nước sông, cây tăm ấy vướng vào búi tóc ông. “Đồ súc sinh!” Ông nói trong khi thấy cây tăm: “Nó từ đâu đến đây, cái đồ phá hoại này. Ta phải tìm hiểu xem.”

Ông liền đi ngược dòng, khi thấy bậc Đại sĩ liền hỏi:

– Ông thuộc giai cấp nào?

– Ta là một Chiên-đà-la.

– Có phải ông đã thả cây tăm xuống dòng sông chăng?

– Chính phải.

– Đồ súc sinh, quân tồi tàn hạ đẳng! Đồ mắc dịch, ngươi không được ở đây mà phải đi xuống chỗ hạ lưu kia!

Song khi ngài xuống ở vùng hạ lưu, cây tăm ngài thả trôi ngược dòng nước vẫn vướng vào tóc Jātimanta. Ông ta mắng:

– Quân đáng nguyền rủa! Nếu ngươi ở đây trong bảy ngày nữa, đầu ngươi sẽ tan thành bảy mảnh.

Bậc Đại sĩ suy nghĩ: “Nếu ta buông mình theo cơn thịnh nộ với người này thì ta không giữ được công đức, song ta sẽ tìm cách phá tan lòng kiêu mạn của ông ta.”

Vào ngày thứ bảy, ngài ngăn cản mặt trời mọc, cả trần gian đều tối tăm nên dân chúng kéo đến vị tu khổ hạnh Jātimanta và hỏi:

– Thưa Tôn giả, có phải chính ngài ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Ông ta đáp:

– Việc đó không phải do ta làm mà có một lão Chiên-đà-la sống gần bờ sông, chắc lão ấy làm đấy.

Sau đó, dân chúng đến gặp bậc Đại sĩ và hỏi lại:

– Thưa Tôn giả, có phải chính Tôn giả ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Ngài đáp:

– Này các Hiền hữu, chính phải!

Họ hỏi:

– Tại sao thế?

– Vị tu khổ hạnh được các Hiền hữu quý mến đã phỉ báng ta, một người vô tội, vậy khi nào vị đó đến quỳ dưới chân ta để xin thương xót thì ta mới để cho mặt trời mọc lên.

Dân chúng đi kéo lê ông ta rồi thả ông xuống trước chân bậc Đại sĩ và vừa cố sức vỗ về ngài vừa nói:

– Thưa Tôn giả, xin cho mặt trời mọc.

Song ngài đáp:

– Ta không thể để mặt trời mọc được, vì nếu ta làm như thế, đầu kẻ này sẽ vỡ thành bảy mảnh.

Họ hỏi:

– Thưa Tôn giả, vậy chúng tôi phải làm gì?

– Hãy đem cho ta một cục đất!

Họ đem lại một cục đất.

– Nào, hãy đặt cục đất lên đầu người khổ hạnh này, rồi kéo ông ta xuống nước!

Sau khi sắp đặt việc này xong, ngài để cho mặt trời mọc lên. Vừa khi mặt trời được di chuyển tự do, cục đất nứt thành bảy mảnh, còn người tu khổ hạnh nhảy tùm xuống nước.

Sau khi đã hàng phục ông ta như vậy, bậc Đại sĩ suy nghĩ: “Mười sáu ngàn Bà-la-môn kia hiện ở đâu?” Ngài nhận ra họ đang ở với vua xứ Mejjha và quyết định đi hàng phục họ nên dùng thần lực, ngài hạ xuống vùng ngoại thành, cầm bình bát trong tay đi khất thực. Khi các Bà-la-môn thấy ngài, họ bảo nhau:

– Chỉ để lão ở đây hai ngày thôi là lão sẽ làm ta mất nơi nương tựa!

Họ vội vàng chạy đến yết kiến vua và kêu to:

– Tâu Đại vương, có một lão khoác lác đại bịp đến đây, xin hãy bỏ tù lão!

Vua rất sẵn sàng. Còn bậc Đại sĩ với bát thức ăn đủ loại đang ngồi ăn bên cạnh bức thành trên một chiếc ghế dài. Tại đó, trong khi ngài đang ăn, đám thị vệ của vua tìm đến, lấy kiếm đánh ngài rồi giết đi. Sau khi mạng chung, ngài tái sanh lên cõi Phạm thiên.

Chuyện kể rằng, trong kiếp này Bồ-tát là một người chuyên điều phục những kẻ thô ác và ngài phải chịu chết vì công việc này. Các vị thần nổi giận liền trút xuống toàn vương quốc Mejjha một trận lửa tro nóng rực, phá hủy toàn bộ nước ấy.

Vì thế có lời lưu truyền:

Người ta kể chuyện cả non sông,

Của xứ Mejjha phải diệt vong,

Nước kia bị xóa tan bờ cõi,

Vì giết Mātaṅga, bậc lẫy lừng.

***

Khi bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại này. Ngài bảo:

– Đây không phải là lần đầu tiên Vua Udena phỉ báng các vị tu khổ hạnh mà xưa kia cũng thế.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Vua Udena là Maṇḍavya và Ta chính là Hiền trí Mātaṅga.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.