Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§496. CHUYỆN CÚNG THỰC PHẨM ĐÚNG CẤP BẬC (Bhikkhāparamparajātaka) (J. IV. 369)
Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao...
Chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một vị điền chủ. Người ấy là một tín đồ mộ đạo, thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Như Lai và Tăng chúng. Một hôm, ông suy nghĩ như sau: “Ta thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Phật là ngôi báu và Tăng chúng là một ngôi báu nữa bằng cách cúng dường thực phẩm thượng vị và y phục. Nay ta muốn tỏ lòng cung kính trọng thể Pháp bảo. Song làm cách nào để cúng dường ngôi báu ấy?” Vì vậy, ông đem nhiều vòng hoa thơm và hương liệu đi về phía Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Đạo sư và hỏi Ngài:
– Bạch Thế Tôn, ước nguyện của con là cúng dường Pháp bảo, vậy làm sao một người có thể thực hiện việc ấy?
Bậc Đạo sư đáp:
– Nếu tâm nguyện của ông là cúng dường trọng thể ngôi Pháp bảo thì ông hãy cúng dường trọng thể cho Ānanda, vị Thủ kho Chánh pháp (Dhamma Bhaṇḍāgārika)!
– Lành thay!
Ông đáp và xin hứa sẽ thực hiện việc ấy. Ông đi mời Tôn giả Ānanda đến viếng nhà mình, rồi hôm sau rước Tôn giả về nhà với lễ nghi vô cùng huy hoàng trọng thể. Ông mời Tôn giả ngồi trên một bảo tòa lộng lẫy và cúng dường Tôn giả vòng hoa thơm cùng hương liệu, rồi thiết đãi đủ loại cao lương mỹ vị, lại dâng loại vải vóc rất sang trọng vừa đủ cho ba y. Tôn giả liền suy nghĩ: “Vinh dự này dành cho Pháp bảo, nó không thích hợp với ta mà thích hợp với vị Tướng quân Chánh pháp (Dhamma Senāpati).”
Thế là đặt thực phẩm vào bình bát và cầm vải vóc, Tôn giả đem đến tinh xá tặng lễ vật cho Tôn giả Sāriputta. Tôn giả này cũng nghĩ như vậy: “Vinh dự này dành cho ngôi Pháp bảo, nó không thích hợp với ta mà nó chỉ thích hợp duy nhất với bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đấng Pháp Vương.” Và Tôn giả dâng nó lên đấng Thập Lực. Bậc Đạo sư thấy không còn ai trên Ngài nữa nên thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải vóc để làm ba y.
Sau đó, Tăng chúng bàn luận việc này trong pháp đường:
– Này các Hiền giả Tỷ-kheo, thế là vị điền chủ kia muốn tỏ lòng cung kính, trọng vọng đối với Chánh pháp nên cúng dường Tôn giả Ānanda là vị Thủ kho Chánh pháp. Tôn giả này nghĩ mình chưa xứng đáng với lễ vật ấy nên trao lại vị Tướng quân Chánh pháp. Tôn giả này cũng nghĩ mình không xứng đáng nên dâng lên đức Như Lai. Đức Như Lai thấy không còn ai trên Ngài, biết rằng Ngài xứng đáng với lễ vật ấy ở vị trí đấng Pháp Vương nên Ngài đã thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải để làm ba y kia. Như vậy, thực phẩm cúng dường đã tìm được chủ nhân nhờ đi đến đúng người có quyền thọ hưởng.
Bậc Đạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi ở đây. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm cúng dường đến đúng vào phần của người xứng đáng bằng những cấp bậc tiến lên tuần tự mà ngày xưa trước thời Như Lai cũng thế.
Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thời, Vua Brahmadatta trị vì rất chân chánh tại Ba-la-nại sau khi đã đoạn trừ các ác nghiệp và hành trì thập vương pháp. Vì thế, tòa án xử kiện của vua trở nên trống rỗng, vua muốn tìm kiếm cho ra lỗi lầm của mình, cứ hỏi han mọi người bắt đầu với những người ở chung quanh ngài, nhưng không nơi nào dù trong các hậu cung, trong kinh thành hay các thôn làng lân cận, ngài tìm được người nói một lỗi gì cho ngài cả. Sau đó, ngài quyết định đi thăm dò dân chúng vùng quê. Vì thế, sau khi giao quyền trị nước cho các triều thần, ngài đem vị tế sư đi theo ngài. Hai vị cải trang du hành xuyên qua quốc độ Kāsi. Tuy thế, ngài cũng không thấy ai nói về ngài vì một lỗi nào cả.
Cuối cùng, ngài đến một làng ở biên địa, ngồi ở một sảnh đường ngoài cổng thành. Thời đó, một vị điền chủ của làng ấy là một phú ông giàu có, có đến tám trăm triệu đồng tiền, đi cùng một đoàn tùy tùng đông đảo đến một bến tắm, thấy vua ngồi trong sảnh đường kia với thân tướng cao sang và sắc da vàng óng. Ông sinh lòng yêu mến ngài liền đi vào sảnh đường và bảo:
– Hãy ngồi đây một lát!
Sau đó ông về nhà, bảo soạn sẵn đủ loại thực phẩm thượng vị rồi trở lại với đoàn tùy tùng đông đảo mang theo các bình bát đựng thức ăn.
Cùng lúc ấy, một vị tu khổ hạnh từ vùng Tuyết Sơn đi xuống cũng ngồi xuống đó, vị này đã chứng được năm thắng trí. Và một vị Độc Giác Phật cũng từ hang động Nandamūla hạ sơn đến ngồi đó. Vị điền chủ kia đưa nước cho vua rửa tay rồi dọn một đĩa thức ăn thượng hạng đủ loại hương vị thơm ngon và đặt trước mặt vua. Ngài nhận và trao cho vị tế sư Bà-la-môn, vị tế sư cầm lên trao cho nhà tu khổ hạnh. Nhà tu khổ hạnh bước đến gần vị Độc Giác Phật, tay trái cầm bình đựng thức ăn, tay phải cầm bình nước, trước tiên rót nước cúng dường (như chuyện trước), rồi đặt thức ăn vào bát vị này. Vị ấy liền ăn ngay, không mời ai cùng chia phần với mình hay xin phép gì cả.
Khi bữa xong, vị điền chủ suy nghĩ: “Ta dâng thức ăn lên đức vua, ngài trao cho vị tế sư, vị tế sư trao cho vị tu khổ hạnh, vị tu khổ hạnh lại trao cho vị Độc Giác Phật, và vị Độc Giác Phật đã thọ thực ngay mà không xin phép ai nữa. Việc cúng dường này có ý nghĩa gì chăng? Tại sao vị cuối cùng thọ thực và không cần xin phép ai hay nhờ ai cho phép? Ta sẽ hỏi lần lượt các vị này.”
Rồi vị ấy lần lượt đến gần mỗi người, đảnh lễ xong liền nói câu ấy và được các vị trả lời. Vị điền chủ hỏi:
270. Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao,
Ngài đến từ cung điện xứ nào,
Sa mạc vùng này hoang vắng quá,
Dáng hình ngài quả thật thanh tao?
271. Vì mến thương ngài, ta đã dâng,
Cao lương khéo chọn lựa vừa ăn,
Món cơm kia được tài người khéo,
Nấu đổ lên trên món thịt hầm.
272. Thực phẩm ngài cầm lại chẳng ăn,
Ngài đem tặng vị Bà-la-môn,
Lòng đầy cung kính, nay xin hỏi,
Việc mới làm mang ý nghĩa chăng?
[Đức vua đáp:]
273. Sư trưởng ta đây thật nhiệt thành,
Việc dù lớn nhỏ vẫn thi hành,
Nên ta phải tặng phần cơm cúng,
Xứng đáng quốc sư, quả thật tình.
[Vị điền chủ hỏi:]
274. Dù vua cũng trọng Bà-la-môn,
Xin nói, sao ngài lại chẳng ăn,
Một đĩa cao lương tài nấu khéo,
Người đổ đầy trên món thịt ngon?
275. Ngài chẳng hiểu thông nghĩa cúng dường,
Song ngài đem tặng vị Hiền nhân,
Với lòng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?
[Tế sư đáp:]
276. Ta có gia đình với vợ con,
Ta thường cư trú tại gia môn,
Dục tham vua chúa, ta điều phục,
Tham dục riêng ta vẫn đắm hồn.
277. Với người khổ hạnh, bậc Hiền nhân,
Xưa ở trong rừng vẫn trú thân,
Già cả, thực hành theo giáo lý,
Nên ta cầm thực phẩm đem dâng.
[Vị điền chủ hỏi:]
278. Nay ta xin hỏi bậc Hiền nhân,
Ở dưới da ngài lộ rõ gân,
Vói móng mọc dài, đầu tóc rối,
Cái đầu dơ bẩn lẫn hàm răng.
279. Ngài chẳng màng đời sống thế gian,
Hỡi người đơn độc trú rừng hoang,
Tôn sư nay có gì ưu thắng,
Mà phải đem lương thực cúng dâng?
[Vị khổ hạnh đáp:]
280. Ta đào củ cải, tỏi, hành hoang,
Cỏ, lá, bạc hà, vẫn kiếm luôn,
Nhặt hạt cải đen, rung lúa dại,
Trải ra phơi nắng thật khô giòn.
281. Ngó sen, dược thảo, táo, chà là,
Am-lặc, mật ong, miếng thịt thừa,
Là của ta dành phần kiếm được,
Rồi làm thành món hợp cho ta.
282. Ngài không, lão nấu, lão nhiều hàng,
Ngài chẳng có chi, lão buộc ràng,
Thế sự bao điều, Ngài giải thoát,
Món cơm Ngài hưởng đúng công bằng.
[Vị điền chủ hỏi:]
283. Xin hỏi ngồi kia bậc Trí hiền,
Mọi nguồn dục vọng thảy nằm yên,
Món cơm nấu khéo đầy ngon ngọt,
Có kẻ đem phần thịt đổ lên.
284. Ngài nhận và ngon miệng uống ăn,
Chẳng mời ai đến để chia phần,
Đầy lòng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy Ngài làm có nghĩa chăng?
[Độc Giác Phật đáp:]
285. Không nấu cũng không bảo nấu giùm,
Nay không làm hại, trước không làm,
Vị kia biết rõ Ta không của,
Ta quyết đoạn trừ mọi dục tham.
286. Tay phải vị kia nắm chiếc bình,
Thức ăn cầm phía trái bên mình,
Cho Ta món thịt hầm người đặt,
Trên bát cơm ngon thật tốt lành.
287. Chúng nhiều tài sản, lắm kim ngân,
Bổn phận là đem của phát phân,
Ai bảo người cho cùng thọ hưởng,
Ấy là thù địch, chớ phân vân.
Khi nghe những lời này, vị điền chủ vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ cuối cùng:
288. Thật là ta được một duyên may,
Hạnh ngộ quân vương ngự tới rày,
Thuở trước ta không hề biết rõ,
Cúng dường mang phước quả tràn đầy.
289. Đế vương với các Bà-la-môn,
Trị nước mà tâm ác dục tràn,
Các Trí nhân tìm cây quả dại,
Bậc tu hành giải thoát lòng tham.
Khi vị Độc Giác Phật thuyết giáo cho vị kia xong liền trở về cõi của Ngài và vị tu khổ hạnh cũng thế. Còn nhà vua, sau vài ngày ở lại với vị điền chủ cũng trở về Ba-la-nại.
***
Khi bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm đến tay người xứng đáng mà trước kia cũng vậy.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, người điền chủ đã tôn trọng cúng dường Pháp là người điền chủ trong chuyện này, Ānanda là vua, Sāriputta là vị tế sư và Ta chính là vị tu khổ hạnh trên vùng Tuyết Sơn.
Xem J. VI. 68, Sāmajātaka (Chuyện hiếu tử Sāma), số §540. ↑
Bản CST viết Sāliddiya. ↑
Xem Buddhist Birth Stories (Những câu chuyện bổn sanh Phật giáo), pp. 2, 58; Buddhism in Translations (Các dịch phẩm Phật giáo), pp. 38, 82. ↑
Xem J. I. 1, Apaṇṇakajātaka (Chuyện không lỗi lầm), số §1. ↑
Xem J. VI. 479, Vessantarajātaka (Chuyện Đại vương Vessantara), số §547. ↑
Xem J. IV. 50, Mahādhammapālajātaka (Chuyện Đại nhân Dhammapāla), số §447. ↑
P. Kadamba, 迦蘭波樹 (Ca-lan-bà thọ), E. Anthocephalus cadamba: Cây gáo tròn hay còn gọi cây gáo vàng. ↑
Xem J. III. 232, Setaketujātaka (Chuyện Bà-la-môn Setaketu), số §377. ↑
Xem JPTS. 1884, p. 95. ↑
Xem Cp. 94, Bhisacariya (Hạnh của đức Bồ-tát Bhisa). ↑
Xem J. V. 278, Kusajātaka (Chuyện Đại đế Kusa), số §531. ↑
Tôn giả Mahāmoggallāna (大目犍連, Đại Mục-kiền-liên), Tôn giả Sāriputta (舎利弗, Xá-lợi-phất), Tôn giả Kassapa (迦葉, Ca-diếp), Tôn giả Anuruddha (阿那律, A-na-luật), Tôn giả Puñña (富樓那, Phú-lâu-na), Tôn giả Ānanda (阿難陀, A-nan-đà). ↑
Nữ Tôn giả Uppalavaṇṇā (蓮華色, Liên Hoa Sắc) được đức Phật khen ngợi là vị “Đệ nhất về thần thông” trong hàng Ni giới. Tham khảo: S. I. 131f; A. I. 25; Thīg. v. 234-5; Vin. III. 208f. ↑
Nữ cư sĩ Khujju, viết đủ: Khujjuttarā (cổ dịch âm: 久壽多羅, Cửu-thọ-đa-la) được đức Phật khen ngợi là vị “Đệ nhất về nghe nhiều” trong hàng nữ cư sĩ. Cô đã trùng tuyên lại 112 bài kinh, được kết tập thành tuyển tập Itivuttaka (Kinh Phật thuyết như vậy) thuộc Khuddaka Nikāya (Kinh Tiểu bộ). Tham khảo: A. I. 26, 89; II. 164; IV. 347; AA. I. 226, 232, 237; ItA. 23f; PsA. 498f. ↑
Sātā, viết đủ là Sātāgira, một dạ-xoa rất kính ngưỡng Tam bảo. Tham khảo: D. III. 204; AA. I. 134, 221; SA. I. 199; UdA. 64. ↑
Citta, viết đủ: Cittagahapati (cổ dịch âm: 質多羅, Chất-đa-la), một cư sĩ triệu phú ở Macchikāsanda thuộc nước Kāsi, sau khi học Phật, giữ giới, tu tập và đắc quả Bất lai (Anāgāmī). ↑
Con voi Pāri, viết tên đầy đủ là Pārileyya. Tên này cũng trùng với tên gọi của thôn Pārileyya, ngoại thành Kosambī. Voi Pārileyya đã hộ trì vật thực và tìm suối nước nóng cho đức Phật khi Ngài rời nhóm Tỷ-kheo cãi cọ ồn ào, một mình vào trú ở trong rừng Pārileyya. Tham khảo: M. I. 320; S. III. 95; Ud. IV. 5; Vin. I. 352f. ↑
Con khỉ Madhuva, chỉ cho con khỉ đã mang mật về cúng dường đức Phật khi Ngài rời nhóm Tỷ-kheo cãi cọ ồn ào, một mình vào trú ở trong rừng Pārileyya. Không lâu, sau khi cúng dường, khỉ bị rơi từ cây cao xuống mà chết và được tái sanh vào cõi trời Tam Thập Tam. ↑
Kāḷu, viết đủ: Kāḷudāyi (cổ dịch âm: 迦留陀夷, Ca-lưu-đà-di). ↑
Xem J. VI. 95, Nimijātaka (Chuyện Đại vương Nimi), số §541; S. I. 209, Sānusutta (Kinh Sānu); A. I. 142, Catumahārājasutta (Kinh Bốn bậc Đại vương); A. I. 143, Dutiyacatumahārājasutta (Kinh thứ hai về bốn bậc Đại vương); Thīg. v. 31, Mittātherīgāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Ni Mittā). ↑
Xem J. II. 331, Mahāpanādajātaka (Chuyện Đại vương Mahāpanāda), số §264. ↑
Xem J. I. 502, Sigālajātaka (Chuyện con chó rừng), số §148. ↑
Xem J. II. 33, Morajātaka (Chuyện con công), số §159. ↑
Kaṇikāra hoặc kaṇṇikāra (迦尼迦, ca-ni-ca; 黃花樹, hoàng hoa thọ; tên khoa học là Pterospermum Acerifolium, Cathartocarpus Fistula), cây có hoa vàng, chỉ cho cây lòng mán lá phong, cây muồng hoàng yến. ↑
Guñjā, 藥用蔓草 (dược dụng mạn thảo), 相思子 (tương tư tử), 香思子 (hương tư tử), Abrus Precatorius: Cam thảo dây. ↑
Xem J. II. 33, Morajātaka (Chuyện con công), số §159. ↑
Xem J. II. 402, Vaḍḍhakisūkarajātaka (Chuyện con heo rừng của người thợ mộc), số §283. ↑
Tham chiếu: J. IV. 72, Bhūripañhajātaka (Chuyện vấn đề trí tuệ), số §452; J. V. 232, Mahābodhijātaka (Chuyện Hiền giả Mahābodhi), số §528; J. VI. 4, Mūgapakkhajātaka (Chuyện Vương tử què câm), số §538; J. VI. 262, Vidhurapaṇḍitajātaka (Chuyện bậc Đại trí Vidhura), chuyện này trong bản Tích Lan và PTS là số 545, trong bản CST là số 546; Ap. I. 14, Sāriputtattheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Sāriputta); Ap. I. 37, Upālittheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Upāli); Ap. I. 70, Upavānattheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Upavāna); Ap. II. 413, Maṇipūjakattheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Maṇipūjaka). ↑
Xem A. II. 10, Taṇhuppādasutta (Kinh Ái sanh); It. 8, Taṇhāsaṃyojanasutta (Kinh Ái kiết sử); It. 109, Taṇhuppādasutta (Kinh Ái sanh); Sn. 139, Dvayatānupassanāsutta (Kinh Hai pháp tùy quán) ↑
Xem J. VI. 35, Mahājanakajātaka (Chuyện Đại vương Mahājanaka), số §539; J. VI. 97, Nimijātaka (Chuyện Đại vương Nimi), số §541; J. VI. 481, Vessantarajātaka (Chuyện Đại vương Vessantara), số §547; Vv. 77, Revatīvimānavatthu (Chuyện lâu đài của Revatī); Pv. 83, Revatīpetavatthu (Chuyện ngạ quỷ Revatī). ↑
Xem J. III. 469, Ādittajātaka (Chuyện ngọn lửa đốt cháy), số §424. ↑
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.