Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§495. CHUYỆN MƯỜI HẠNG BÀ-LA-MÔN (Dasabrāhmaṇajātaka) (J. IV. 360)
Chúa thượng Yudhi thật chánh chân...
Chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một lễ vật cúng dường tối thượng. Chuyện này đã được giải thích trong chương VIII, Chuyện ngọn lửa đốt cháy.[31]
Ta biết rằng nhà vua trong lúc thực hiện việc cúng dường này đã quan sát kỹ lưỡng năm trăm vị Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng thủ và đã dâng lễ vật lên các bậc Thánh cao trọng nhất trong Tăng chúng. Sau đó, Tăng chúng ngồi trong pháp đường và nói về công đức của vua ấy như sau:
– Này Hiền hữu Tỷ-kheo, vị vua này trong lúc dâng lễ vật tối thượng đã cúng dường các vị đạo cao đức trọng.
Bậc Đạo sư bước vào và hỏi các vị bàn luận gì trong lúc ngồi tại đây, các vị trình với Ngài. Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, thật không kỳ diệu gì khi ngày nay vua xứ Kosala đã là đệ tử của bậc Đạo sư như Ta lại cúng dường có phân biệt rõ ràng. Ngay các bậc Hiền trí xưa kia, trước khi Như Lai xuất hiện ở đời cũng đã cúng dường có phân biệt.
Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, trong vương quốc Kuru và kinh thành Indapatta có Vua Koravya cai trị, thuộc dòng dõi Yuddhiṭṭhila. Còn quốc sư về thế sự cũng như thánh sự của vua là vị đại thần mệnh danh Vidhūra (Hiền Trí). Vua thực hành đại bố thí làm chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề, nhưng trong số những người thọ hưởng các thí vật này không có ai là người giữ đúng ngũ giới, tất cả họ đều độc ác trên phương diện làm người nên việc bố thí của vua không làm tâm ngài thỏa mãn. Ngài suy nghĩ: “Kết quả của việc cúng dường có phân biệt thật là vĩ đại thay!” Và với lòng ước ao cúng dường các bậc có đức độ cao cả, ngài quyết định hỏi ý kiến bậc Hiền nhân Vidhūra. Vì thế khi Quốc sư Vidhūra vào chầu vua, ngài mời vị này ngồi xuống và đưa vấn đề ra hỏi vị này.
Để trả lời việc này, bậc Đạo sư ngâm nửa vần kệ đầu. (Phần sau là phần vấn đáp giữa nhà vua và Vidhūra:)
222. Chúa thượng Yuddhi thật chánh chân,
Một hôm hỏi ý bậc Hiền nhân,
Vidhū tìm các La-môn thiện,
Những bậc Hiền nhân trí tuệ tràn.
223. Những người đoạn ác nghiệp, ly dâm,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng như vầy, thiện hữu,
Để ngày sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
224. Thật khó tìm Hiền thánh thế này,
La-môn trí đức đủ như vầy,
Những người giữ trọn tâm ly dục,
Để thọ hưởng phần phẩm thực đầy.
225. Giữa đời mười loại Bà-la-môn,
Xin hãy lắng nghe, tấu Đại vương,
Trong lúc hạ thần phân biệt họ,
Thần xin nói rõ họ hoàn toàn.
226. Vài người mang túi xách trên lưng,
Củ, rễ chất đầy buộc thật căng,
Những kẻ góp gom cây cỏ thuốc,
Tắm mình, tụng chú thuật, bùa thần.
227. Bọn họ như thầy thuốc, Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
228. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
229. Những người đoạn ác nghiệp, ly dâm,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
230. Bọn người đi trước lại mang chuông,
Trong lúc vừa đi họ réo vang,
Họ biết lái xe đầy khéo léo,
Thư từ thông điệp họ đều mang.
231. Họ chẳng khác nào đám dịch nhân,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
232. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
233. Những người đoạn ác nghiệp, ly dâm,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
234. Với bình nước uống, gậy cong cong,
Họ chạy đuổi theo kịp quốc vương,
Qua các thôn làng cùng thị trấn,
Trong khi theo đuổi lại ca rằng:
“Ta không đi nữa dù rừng, phố,
Cho đến khi Hoàng thượng cúng dường.”
235. Họ quấy rầy như các thế nhân,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
236. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
237. Những người đoạn ác nghiệp, ly dâm,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
238. Móng dài, lông rậm cả tay chân,
Tóc bện và hôi thối miệng răng,
Bụi bặm bám đầy người bẩn thỉu,
Họ đi đường tựa bọn xin ăn.
239. Là bọn tiều phu, tấu Đại vương!
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
240. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
241. Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
242. Kha tử, lý gai, đào đỏ hồng,
Sa kê, xoài chín, trái chùi răng,
Bầu nâu, trái vibhīṭaka,
Cùng với số nhiều trái táo ta.
243. Hộp mía, trái mà-ca, mật ong,
Thuốc tra nhỏ mắt, ống khói xông,
Món nhiều đủ thứ như đi bán,
Tâu Chúa thượng xem, họ bán hàng.
244. Chúa thượng, khác nào bọn lái buôn,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
245. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
246. Những người đoạn ác nghiệp, ly dâm,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
247. Những người làm ruộng hoặc đi buôn,
Nuôi lắm đàn dê ở trại chuồng,
Trao đổi cưới xin làm sính lễ,
Bán các con gái để mua vàng.
248. Giống bọn con lai, đám tiện dân,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
249. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
250. Những người đoạn ác nghiệp, ly dâm,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
251. Bọn thầy cúng tế, đoán điềm hên,
Thiến, lựa bò, dê để lấy tiền,
Dân chúng mời về, thường ở lại,
Có đầy thực phẩm được dâng lên,
Nơi kia bò cái, bê, bò thiến,
Dê, lợn đều đem giết lắm phen.
252. Bọn họ như hàng thịt hạ tầng,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
253. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
254. Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư Hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
[Trí giả Vidhūra nói:]
255. Bọn mang gươm, giáo, mộc che mình,
Tay lại cầm rìu tựa chiến binh,
Họ đứng trước đoàn thương khách nọ,
Sẵn sàng hướng dẫn nhóm du hành.
256. Như mục phu, quân cướp bạo gan,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
257. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
258. Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm mong dâng cúng người hiền thiện,
Để chính mình sau gặt quả lành.
[Trí giả Vidhūra nói:]
259. Có bọn xây lều đặt bẫy giăng,
Bất kỳ nơi chốn ở trong rừng,
Bắt loại cá, tôm cùng rùa, trạch,
Mèo, thỏ, tắc kè, mọi thú hoang.
260. Tâu Đại vương, đây chính thợ săn,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
261. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
262. Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện cúng dâng chư Hiền giả,
Để chính mình sau gặt quả lành.
[Trí giả Vidhūra nói:]
263. Lại có bọn ham chuộng bạc vàng,
Chịu nằm xuống dưới chiếc vương sàng,
Để vua tắm rửa trên đầu họ,
Trong lễ Soma rảy tế đàn.
264. Thợ cạo khác gì, tấu Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà-la-môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
[Đại vương Koravya đáp:]
265. Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhū, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
266. Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện cúng dâng người như vậy,
Để chính mình sau gặt quả lành.
Như vậy, sau khi miêu tả các loại Bà-la-môn chỉ mang hư danh mà thôi, bậc Trí giả nói tiếp để miêu tả các vị Bà-la-môn theo đúng ý nghĩa cao cả nhất trong hai vần kệ:
267. Song các La-môn, tấu Đại vương,
Những người đại trí tuệ, hiền lương,
Đoạn trừ mọi ác hạnh, tham dục,
Để thọ thức ăn được cúng dường.
268. Chư vị chỉ dùng một bữa ăn,
Chẳng bao giờ đụng rượu men nồng,
Đại vương biết rõ người như vậy,
Ta có nên tìm các vị không?
Khi vua nghe các lời này liền hỏi:
– Này Hiền hữu Vidhūra, các vị Bà-la-môn này xứng đáng cúng dường tối thượng ở đời, hiện nay các vị đang ở đâu?
– Tâu Đại vương, ở trên dãy Tuyết Sơn xa xôi kia, trong hang động Nandamūla.
– Vậy thì, này bậc Trí giả, hãy dùng uy lực của ngài mang các vị Bà-la-môn ấy đến ngay đây cho trẫm!
Rồi trong nỗi hân hoan tột độ, vua ngâm vần kệ này:
269. Quốc sư đem hết các La-môn,
Thanh tịnh tràn đầy, trí chánh chơn,
Mời các ngài ngay, hiền sĩ hỡi,
Chần chờ gì nữa, hãy lên đường!
Bậc Đại sĩ chấp thuận làm theo lời vua yêu cầu và nói thêm:
– Bây giờ, tâu Đại vương, hãy truyền lệnh cho đánh trống khắp kinh thành, loan báo rằng toàn thành phải trang hoàng rực rỡ, toàn dân phải bố thí và hành trì ngày trai giới, nguyện giữ mình đức độ, và chính Đại vương cùng cả triều đình cũng phát nguyện giữ ngày trai giới!
Còn chính ngài, ngay từ tảng sáng, sau khi điểm tâm xong liền phát nguyện giữ ngày trai giới; đến chiều, ngài bảo đem đến một giỏ hoa lài, rồi cùng vua đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất và khi ngài vừa nhớ lại những công đức của các vị Độc Giác Phật, ngài vừa khấn vái lời này:
– Kính thỉnh năm trăm vị Độc Giác Phật đang trú trong vùng Bắc Tuyết Sơn, hang động Nandamūla, ngày mai xin các Ngài hạ cố hưởng thọ thực phẩm của triều đình.
Ngài thả tám nắm tay đầy hoa lên không gian, lập tức các hoa này rơi trên năm trăm vị Độc Giác Phật vào đúng nơi các Ngài đang an trú. Các Ngài ấy suy xét và thấy ngay sự việc kia liền nhận lời mời và bảo nhau:
– Này các Tôn giả, chúng ta được vị Hiền nhân Vidhūra mời đến, vị này không phải người phàm tục đâu, ngài có hạt giống Phật trong mình nên ngay trong kiếp này, ngài sẽ thành Phật. Chúng ta hãy tỏ lòng kính mến đặc biệt với ngài!
Bậc Đại sĩ hiểu các Ngài đã chấp thuận lời mời, bằng chứng là các hoa kia không bay trở lại. Sau đó, ngài bảo:
– Tâu Đại vương, ngày mai các vị Độc Giác Phật sẽ đến, vậy hãy lo cung thỉnh các vị trọng thể và dâng lễ cúng dường!
Ngày hôm sau, đức vua đón tiếp các Ngài vô cùng trọng thể, sửa soạn bảo tòa để các Ngài ngồi trên một cái bệ uy nghi cao cả. Các vị Độc Giác Phật ở hồ Anotatta đợi cho đến lúc cảm thấy đói bụng liền du hành qua không gian và giáng hạ ngay sân chầu của hoàng cung. Vua cùng Bồ-tát đầy lòng thành tín, đón lấy các bình bát từ tay các Ngài và thỉnh các Ngài đi lên chiếc bệ đài hoa kia, mời an tọa, rảy nước cúng dường lên tay các Ngài rồi phục vụ các Ngài thực phẩm thượng hạng, đủ loại cứng và loại mềm. Sau buổi thọ thực, vua lại mời các Ngài đến vào ngày hôm sau và cứ thế trong bảy ngày liền, dâng cúng các Ngài nhiều lễ vật, và vào ngày thứ bảy, vua cúng dường đủ mọi vật cần thiết. Lúc ấy, chư vị nói lời tùy hỷ với vua xong liền bay qua không gian trở về nơi trú ngụ cũ, còn các vật cúng dường cũng đều bay theo các Ngài.
***
Sau khi chấm dứt pháp thoại, bậc Đạo sư bảo:
– Này các Tỷ-kheo, thật chẳng kỳ lạ gì việc vua xứ Kosala nay là đệ tử của Ta đã cúng dường Ta lễ vật tối thượng vì các bậc Trí nhân ngày xưa ở thời chưa có đức Phật cũng đã làm như thế.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, Ānanda là vua và bậc Trí giả Vidhūra chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.