Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§489. CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG SURUCI (Surucijātaka)[20] (J. IV. 314)

Thiếp là chánh hậu Chúa Suruci...

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể lúc trú gần Xá-vệ, trong tòa nhà của Lộc Mẫu về việc nữ cư sĩ đệ nhất Visākhā đã được Ngài ban tám điều nguyện ước như thế nào.

Một buổi nọ, bà ấy nghe thuyết pháp ở Kỳ Viên xong rồi trở về nhà sau khi thỉnh đức Phật và chúng đệ tử của Ngài đến nhà vào ngày hôm sau. Nhưng khuya hôm ấy, một cơn cuồng phong dữ dội hoành hành cả bốn châu thiên hạ, đức Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:

– Khi mưa rơi ở Kỳ Viên, này các Tỷ-kheo, mưa cũng rơi khắp bốn châu thế giới. Các ông hãy thấm nhuần ơn mưa móc đến tận thịt da, vì đây là cơn đại cuồng phong cuối cùng của Ta thổi khắp thế giới!

Rồi cùng với các Tỷ-kheo thân mình đã thấm ướt nước mưa, Ngài dùng thần lực biến mất khỏi Kỳ Viên và xuất hiện trong gian phòng khách của tòa nhà bà Visākhā. Bà kêu lên:

– Thật hy hữu thay! Thật linh diệu thay là thần thông lực của đức Như Lai thị hiện! Nước ngập lụt đến tận đầu gối, nước ngập lụt đến tận thắt lưng nhưng không có bàn chân hay chiếc y của một Tỷ-kheo nào bị ướt cả!

Trong nỗi hân hoan tràn ngập ấy, bà cùng các tín nữ phục vụ đức Phật và Tăng chúng. Sau buổi thọ thực, bà thưa với đức Phật:

– Thật tình con ước ao nhận được nhiều thỉnh nguyện từ đức Thế Tôn.

– Này Visākhā, các đức Như Lai có vô lượng ân lành.

– Song những điều thỉnh nguyện này xin được ban cho chúng con, những điều này không lỗi lầm!

– Này Visākhā, cứ nói đi!

– Con ước ao rằng suốt đời con được quyền dâng áo khoác về mùa mưa cho Tăng chúng, thực phẩm cho các vị khách đến thăm nhà, thực phẩm cho Tăng chúng du hóa đường xa, thực phẩm cho các vị bị bệnh, thực phẩm cho những vị Tỷ-kheo phục vụ các bệnh nhân, thuốc men cho các bệnh nhân, thường xuyên cúng dường cháo gạo và suốt đời cúng dường y phục cho các Tỷ-kheo-ni khi đi tắm.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Này Visākhā, bà dự định làm công đức gì khi bà thỉnh cầu Như Lai tám nguyện ước này?

Bà liền thưa với Ngài những lợi lạc mà bà mong có được và Ngài đáp:

– Lành thay, lành thay, này Visākhā, thật tốt lành thay là điều lợi lạc mà bà mong sẽ được khi thỉnh cầu Như Lai tám nguyện ước này!

Rồi Ngài bảo:

– Này Visākhā, Ta ban cho bà tám đặc ân này đó.

Sau khi ban cho bà tám thỉnh nguyện ấy xong và nói lời tùy hỷ công đức, Ngài ra về.

Một hôm, khi bậc Ðạo sư đang trú tại Ðông Viên, Tăng chúng bắt đầu bàn luận việc này trong pháp đường:

– Này Hiền hữu, nữ thí chủ Visākhā, dù là nữ nhân, đã được chính đấng Thập Lực ban cho tám thỉnh nguyện. Công đức của bà ấy thật cao cả thay!

Bậc Ðạo sư bước vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên nữ nhân này nhận được những thỉnh nguyện từ Ta vì bà ấy xưa kia cũng đã nhận được như vậy.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

***

Một thời, có vị Vua Suruci trị vì Mithilā. Vua này có một vương tử đặt tên là Suruci (Huy Hoàng). Khi chàng lớn lên, chàng quyết định đi học tại Takkasilā, vì thế chàng đến đó và ngồi nghỉ ở một sảnh đường tại cổng thành. Bấy giờ, vương tử của vua xứ Ba-la-nại tên là Vương tử Brahmadatta cũng đi đến đó và ngồi nghỉ trên cùng một chiếc ghế dài mà Vương tử Suruci đã ngồi. Hai người trò chuyện và kết bạn với nhau rồi cả hai cùng đi đến vị giáo sư kia. Hai chàng trả học phí và học tập, chẳng bao lâu việc học đã hoàn tất. Rồi hai chàng từ giã thầy dạy và cùng nhau lên đường. Sau khi đi một đoạn ngắn, họ dừng lại ở một nơi có ngã rẽ, cả hai ôm nhau từ biệt, và để giữ mãi tình bạn thắm thiết, hai vị giao ước với nhau:

– Nếu ta có con trai và bạn có con gái hoặc bạn có con trai và ta có con gái thì chúng ta sẽ kết đôi cho chúng.

Khi hai vị lên ngôi, Vua Suruci sinh hạ một vương tử và cũng đặt tên vương tử là Suruci. Còn Vua Brahmadatta sinh con gái đặt tên là Sumedhā (Thiện Trí).

Vào đúng thời lớn khôn, Vương tử Suruci đi đến Takkasilā để học tập và khi việc học hoàn tất, lại trở về. Sau đó, vua cha muốn phong vương cho con mình bằng lễ Quán đảnh và nghĩ thầm: “Bạn ta là vua xứ Ba-la-nại đã sinh con gái, ta nghe nói vậy. Nay ta muốn cưới nàng ấy làm vương hậu cho con ta.” Vì mục đích trên, vua phái sứ thần đem các sính lễ rất trang trọng ra đi. Song trước khi sứ thần đến nơi, vua xứ Ba-la-nại hỏi bà chánh hậu điều này:

– Này Ái hậu, điều gì là nỗi khổ đau nhất đối với một nữ nhân?

– Muôn tâu, đó là việc tranh chấp với các thê thiếp khác của chồng mình.

– Vậy thì, này Ái hậu, để tránh cho con gái duy nhất của ta là Công chúa Sumedhā khỏi nỗi khổ đau ấy, ta sẽ chẳng gả con cho một ai, ngoại trừ người nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không có thê thiếp khác.

Vì vậy, khi các sứ thần đến và nêu danh hiệu công chúa để cầu hôn, vua bảo họ:

– Này các Hiền hữu, quả thực ta đã hứa gả con gái ta cho con của vị vua thân bằng của ta ngày xưa. Song chúng ta không muốn thả con gái vào giữa các nữ nhân. Vì vậy, chúng ta muốn gả con gái cho vị vua nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không thêm ai khác.

Các sứ giả đem thông điệp ấy về tâu với vua. Nhưng vua này phật ý, bảo:

– Nước ta là một đại vương quốc với kinh thành Mithilā chiếm bảy do-tuần, toàn thể đất nước gồm cả ba trăm do-tuần. Một vị đại vương như vậy phải có cả mười sáu ngàn cung phi là ít nhất.

Còn Vương tử Suruci vừa nghe danh tiếng dung sắc tuyệt mỹ của Công chúa Sumedhā liền đâm ra si tình công chúa, dù chỉ là nghe đồn thôi nên chàng nhờ thưa lại song thân là:

– Con quyết sẽ cưới một mình nàng chứ không thêm ai khác nữa. Con có cần gì các nữ nhân kia. Xin đi cưới nàng về ngay!

Hai vị không cản trở ước vọng của chàng liền gửi sính lễ trang trọng cùng đông đảo sứ thần đi rước nàng về cung. Thế là nàng được phong làm vương hậu và cả hai người đều được tôn lên ngôi bằng lễ Quán đảnh. Chàng trở thành Quốc vương Suruci, cai trị rất đúng pháp và sống rất hạnh phúc với hoàng hậu. Song dù nàng đã về sống ở nhà chồng đến mười ngàn năm, nàng chẳng hề sinh hạ con trai hay con gái gì cả.

Sau đó, dân chúng tụ tập lại trước sân chầu với những lời trách móc. Vua hỏi:

– Có chuyện gì thế?

Dân chúng tâu:

– Chúng thần chẳng thấy lỗi lầm nào ngoại trừ việc này, đó là Chúa thượng không có con trai để nối dõi. Chúa thượng chỉ có một chánh hậu, tuy nhiên một quốc vương phải có ít nhất là mười sáu ngàn cung tần. Xin Chúa thượng hãy tuyển một số phi tần mỹ nữ, rồi một thứ phi xứng đáng sẽ hạ sinh cho Chúa thượng một hoàng nam!

– Này, các hiền hữu nói điều gì thế? Ta đã hứa không cưới ai khác ngoài hoàng hậu và theo những điều kiện thỏa thuận trên mà ta đã chiếm được nàng làm vợ. Ta không thể nuốt lời được, ta không cần các nữ nhân đâu!

Như thế vua từ chối lời thỉnh cầu của dân chúng nên họ ra về. Song Sumedhā nghe được câu chuyện. Bà nghĩ thầm: “Ðức vua từ chối việc tuyển chọn cung phi vì lòng trung tín của ngài, được rồi, ta sẽ tìm thê thiếp khác cho ngài.” Bà vừa đóng vai người mẹ cùng vai người vợ đối với vua nên bà tự nguyện tuyển một ngàn công nương thuộc dòng Sát-đế-lỵ, một ngàn tiểu thư con của các quan trong triều, một ngàn thiếu nữ nhà lành, một ngàn vũ nữ đủ loại, tổng cộng bốn ngàn, rồi đem dâng vua.

Các nàng ấy sống trong cung suốt mười ngàn năm cũng chẳng hề sinh con cái gì cả. Cứ theo cách ấy, ba lần nữa, bà dâng vua bốn ngàn cung nữ, song họ chẳng sinh được con cái gì. Như vậy, bà đã dâng vua cả mười sáu ngàn cung tần mỹ nữ. Bốn mươi ngàn năm trôi qua, nghĩa là năm mươi ngàn năm tất cả, tính luôn mười ngàn năm vua đã chỉ sống với một mình hoàng hậu thôi. Sau đó, dân chúng lại tụ tập với những lời trách móc, vua hỏi:

– Cái gì đây nữa?

– Tâu Chúa thượng, xin ngài ra lệnh cho các cung phi cầu tự.

Từ đó để cầu tự, các nàng cúng bái đủ các loại thần linh và thề nguyền khấn khứa đủ mọi cách, tuy thế vẫn không có vương tử nào xuất hiện. Rồi vua ra lệnh cho bà Sumedhā cũng phải cầu tự, hoàng hậu đồng thuận.

Vào dịp lễ trai giới ngày mười lăm (rằm) trong tháng, hoàng hậu giữ hạnh nguyện bát quan trai giới và ngồi trầm tư về các công đức trong một cung thất lộng lẫy trên một sàng tọa êm ái. Các cung nữ khác đều ở trong ngự uyển cầu nguyện sẽ cúng tế đủ loại dê, bò. Vì công đức sáng chói của Hoàng hậu Sumedhā nên cung điện của Thiên chủ Sakka rúng động.

Thiên chủ Đế-thích suy xét và hiểu rằng bà Sumedhā đang cầu tự. “Ðược rồi, bà sẽ được một hoàng nam. Song ta không thể ban cho bà một hoàng nam này hay một hoàng nam nọ một cách thiếu quan tâm mà ta muốn đi tìm một vị nào xứng đáng.” Rồi ngài thấy một thiên tử còn trẻ tên là Naḷakāra (người đan giỏ). Chàng có đầy đủ đức độ thiện hạnh, trong một đời trước đó sống ở Ba-la-nại thì chuyện này xảy ra cho chàng. Vào mùa gieo hạt, khi chàng ra đồng, chàng gặp một vị Ðộc Giác Phật. Chàng bảo các tá điền gieo hạt, cúng dường một bữa ăn rồi dẫn vị ấy trở lại bờ sông Hằng. Chàng cùng con trai dựng túp lều, trụ bằng thân cây sung và đan kết lau sậy làm vách tường, gắn cửa vào và dọn một lối đi. Chàng mời vị Ðộc Giác Phật ở đó suốt ba tháng và khi hết mùa mưa, hai cha con chàng đắp lên Ngài ba chiếc y rồi để Ngài ra đi. Cùng cách ấy, hai cha con thiết đãi đồ ẩm thực bảy vị Ðộc Giác Phật trong túp lều ấy rồi cúng dường mỗi vị ba chiếc y xong để các vị ai đi đường nấy.

Vì vậy, dân chúng vẫn kể chuyện hai cha con làm nghề đan giỏ tìm các cây liễu trên bờ sông Hằng (để lấy gỗ đan giỏ), và hễ khi nào thấy một vị Ðộc Giác Phật thì họ cúng dường như trước đã nói. Lúc mạng chung, họ được tái sanh vào cõi trời Ba Mươi Ba và cứ an trú sáu tầng trời cõi dục liên tục tới lui theo vòng luân hồi sinh tử, tận hưởng vinh quang tột đỉnh giữa chư thiên.

Hai vị ấy sau khi mạng chung ở cõi này lại ước mong được lên các cõi trời cao hơn. Thiên chủ Đế-thích nhận thức rằng một trong hai vị thiên tử này sẽ thành đức Như Lai nên Thiên chủ đến cửa cung của hai vị, đảnh lễ vị ấy khi vị ấy đứng lên chào đón Thiên chủ và bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài nên sinh vào thế giới loài người.

Song vị thiên tử bảo:

– Tâu Ðại vương, thế giới loài người đầy hận thù đáng kinh tởm. Những người ở đó làm thiện sự và bố thí cũng đều ước mong được lên thiên giới. Vậy thần xuống đó làm gì chứ?

– Thưa Tôn giả, ngài sẽ được hưởng trọn vẹn mọi lạc thú có thể hưởng được trong nhân giới. Ngài sẽ ngự trong một cung điện làm toàn bằng bảo ngọc, cao hai mươi lăm do-tuần. Xin ngài đồng ý cho!

Vị thiên tử liền chấp thuận. Khi Thiên chủ Đế-thích đã được vị ấy hứa lời rồi liền giả dạng một Hiền nhân giáng xuống ngự viên, xuất lộ nguyên hình vừa bay lượn trên đầu các cung phi này vừa ca hát:

– Ta sẽ ban diễm phúc cho ai được một nam tử đây? Ai mong được diễm phúc có một nam tử đây?

– Thưa ngài, xin cho con, xin cho con!

Hàng ngàn cánh tay giơ lên. Sau đó, Thiên chủ bảo:

– Ta sẽ ban các nam tử cho những người đức độ. Vậy về công đức các nàng làm được những gì? Cuộc đời các nàng, lối sống các nàng ra sao?

Họ đều hạ tay xuống và thưa:

– Nếu ngài muốn thưởng công cho người đức hạnh thì xin ngài đi tìm chánh hậu Sumedhā.

Ngài liền bay qua không gian và dừng lại ở cửa sổ cung thất của bà. Khi đó, các cung nữ đến trình với bà:

– Tâu Lệnh bà, một vị Thiên chủ đã bay qua không gian và đứng ngay tại cửa sổ cung thất của Lệnh bà để ban cho Lệnh bà diễm phúc được một vương tử.

Bà liền đến đó đón ngài vô cùng trọng thể. Vừa mở cửa sổ ra, bà vừa hỏi:

– Tâu Thiên chủ, tiện thiếp trộm nghe rằng ngài sẽ ban diễm phúc cho một nữ nhân đức hạnh được một nam tử, có đúng vậy chăng?

– Ðúng vậy, ta sẽ làm như thế.

– Vậy xin ngài làm ơn ban cho tiện thiếp diễm phúc ấy.

– Hãy cho ta biết, chánh hậu đã tạo được công đức gì, nếu chánh hậu làm đẹp ý ta, ta sẽ ban cho diễm phúc ấy!

Bà liền ngâm mười lăm vần kệ này nêu rõ công đức của mình:

102. Thiếp là chánh hậu Chúa Suruci,

Vương hậu đầu tiên chúa cưới về,

Với Chúa Suruci vạn tuế,

Thiếp đã sống trọn đạo hiền thê.

103. Suruci Chúa tể Mithilā,

Là chính kinh thành của quốc gia,

Thiếp chẳng hề xem thường thánh ý,

Chẳng chê ngài thấp kém, sai ngoa,

Dù sau lưng chúa, hay ngoài mặt,

Về khẩu, ý, thân, đủ cả ba.

104. Thánh giả, điều này nếu thật chân,

Cầu mong vương tử được ngài ban,

Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,

Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

105. Phụ hoàng, mẫu hậu của vương quân,

Hai đấng sinh thành ngự trị dân,

Trong lúc các ngài còn tại thế,

Vẫn thường dạy thiếp đạo Hiền nhân.

106. Thiếp ước không làm hại mạng ai,

Quyết lòng hành động chánh chân hoài,

Ân cần tận tụy hầu hai vị,

Không mệt mỏi cho dẫu tối ngày.

107. Thánh giả, điều này nếu thật chân,

Cầu mong vương tử được ngài ban,

Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,

Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

108. Thứ phi sau thiếp cứ tăng dần,

Mười sáu ngàn không thiếu một nàng,

Tuy thế, chẳng hề, thưa Thánh giả,

Xảy hờn ghen giữa đám hồng quần.

109. Thiếp mừng khi chúng được an lành,

Với mọi cung phi, thắm thiết tình,

Lòng thiếp nhân từ cùng tất cả,

Khác nào đối với bản thân mình.

110. Thánh giả, điều này nếu thật chân,

Cầu mong vương tử được ngài ban,

Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,

Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

111. Nô tỳ, thị giả, mọi gia nhân,

Tất cả nơi đây ở hợp quần,

Thiếp đối ân cần, ban thực phẩm,

Tươi cười nét mặt tạo hân hoan.

112. Thánh giả, điều này nếu thật chân,

Cầu mong vương tử được ngài ban,

Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,

Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

113. Các nhà ẩn sĩ, Bà-la-môn,

Hễ thấy người nào đến khẩn van,

Thiết đãi uống ăn đều khắp cả,

Ðôi bàn tay rửa sạch hoàn toàn.

114. Thánh giả, điều này nếu thật chân,

Cầu mong vương tử được ngài ban,

Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,

Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

115. Vào ngày mồng tám, nửa tuần trăng,

Mười bốn, mười lăm, các buổi rằm,

Thiếp vẫn chuyên tâm trì giới luật,

Bước theo Thánh đạo của Hiền nhân.

116. Thánh giả, điều này nếu thật chân,

Cầu mong vương tử được ngài ban,

Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,

Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

Quả thật, dù cả trăm, cả ngàn câu kệ cũng không đủ lời tán thán mọi công đức của bà; tuy thế, Thiên chủ Đế-thích cứ để cho bà tự tán thán trong mười lăm vần kệ. Ngài cũng không ngắt ngang câu chuyện, mặc dù ngài còn nhiều việc phải làm ở nơi khác. Sau đó, ngài bảo:

– Công đức của chánh hậu thật là kỳ diệu và sung mãn tràn trề thay!

Rồi ngài ngâm hai vần kệ ca ngợi bà:

117. Nương nương hỡi, Chánh hậu Suruci,

Công đức này cao trọng thập toàn,

Ðều thấy trong nàng, này Chánh hậu,

Chính nàng ca ngợi đại danh nàng.

118. Một hoàng nam chính thống cao sang,

Muôn vẻ vinh quang, trí vẹn toàn,

Ðại đế Videha chánh trực,

Sắp ra đời đó chính con nàng.

Khi bà nghe những lời này, bà vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ để hỏi Thiên chủ:

119. Bụi bẩn, lấm lem tóc rối bồng,

Hình ngài lơ lửng ở trên không,

Nói bằng một giọng đầy thân ái,

Làm thiếp cảm rung tận cõi lòng.

120. Có phải ngài Thiên đế đại hùng,

Trên trời ngài ngự, hỡi Hiền nhân?

Xin cho thiếp biết từ đâu đến,

Cho biết là ai đó giáng trần?

Thiên chủ đáp lời bà qua sáu vần kệ:

121. “Thiên nhãn Sakka” nàng thấy đây,

Vì thiên chúng vẫn gọi như vầy,

Khi thiên chúng lễ ta, đoàn tụ,

Trong Thiện Pháp đường mỹ diệu thay.

122. Khi nữ nhân hiền đức vẹn toàn,

Tại đây được thấy giữa trần gian,

Chánh chân nội tướng đầy nhân ái,

Với mẹ chồng như phận sự nàng.

123. Khi chư thiên biết một hồng nhan,

Lòng trí cao minh, nghiệp thiện toàn,

Dù nữ nhi mà từ thượng giới,

Thiên chúng đích thân đến với nàng.

124. Giữ đời đức hạnh, hỡi nương nương,

Nhờ tích trữ toàn việc thiện lương,

Công chúa xuất thân đà đạt được,

Trọn niềm hạnh phúc vẫn cầu mong.

125. Vậy nàng gặt hái nghiệp duyên nàng,

Bằng cảnh huy hoàng ở thế gian,

Công chúa về sau trên thượng giới,

Tái sanh nàng được hóa thiên thần.

126. Nữ nhi hiền đức hưởng hồng ân,

Cứ sống giữ gìn hạnh chánh chân,

Nay lúc ta cần về thượng giới,

Vui mừng vì diện kiến tôn nhan.

Ngài bảo:

– Ta còn việc phải làm trên thiên giới. Vậy ta đi đây, còn nàng hãy chuyên tâm tinh cần!

Cùng với lời khuyên nhủ này, ngài ra về. Tảng sáng hôm ấy, thiên tử Naḷakāra được nhập mẫu thai của hoàng hậu. Khi bà biết chuyện ấy, bà liền tâu với vua. Vua làm đủ mọi việc cần thiết cho một thai phụ. Sau mười tháng, bà sinh hạ một vương tử, hai vị đặt tên là Mahāpanāda. Toàn dân của hai quốc độ đều đến kêu lên:

– Tâu Chúa thượng, chúng hạ thần xin mang tiền mua sữa tới tặng hoàng thái tử.

Rồi mỗi người thả một đồng vàng vào trong sân chầu thành một đống tiền lớn. Vua không muốn nhận tiền này, nhưng dân chúng không chịu lấy lại và tâu với vua khi họ ra về:

– Tâu Chúa thượng, số tiền này để dành cấp dưỡng vương tử khi ngài lớn lên.

Vương tử lớn lên giữa cảnh huy hoàng và khi chàng đến tuổi trưởng thành, không quá mười sáu, chàng đã kiện toàn tất cả mọi môn học thuật. Vua nghĩ đến tuổi trưởng thành của chàng, bảo hoàng hậu:

– Này Ái hậu, khi đến thời làm lễ Quán đảnh cho hoàng nhi, ta hãy xây cho con ta một cung điện tuyệt đẹp vào dịp đó!

Bà hoàn toàn đồng thuận. Vua liền cho triệu những người có tài đoán biết nơi chốn an lành để xây cung điện và bảo họ:

– Này các hiền hữu, hãy tìm một kiến trúc sư thượng thủ và xây cho ta một cung điện không xa cung của ta! Cung này dành cho hoàng tử mà chúng ta sắp phong vương để kế vị ta đó.

Họ tâu rằng việc ấy tốt lành thay và bắt đầu đi vào khảo sát mặt đất. Lúc ấy, chiếc ngai của Thiên chủ Đế-thích nóng rực lên. Nhận thấy điều này, Thiên chủ lập tức triệu Vissakamma, vị thiên thần chuyên xây dựng đến và bảo:

– Này Hiền giả Vissakamma, hãy xây cho Vương tử Mahāpanāda một cung điện dài chín do-tuần, rộng tám do-tuần và cao hai mươi lăm dặm, toàn bằng bảo ngọc!

Vissakamma liền giả dạng thợ hồ đi đến gần đám thợ kia bảo:

– Hãy đi ăn sáng xong rồi trở về đây!

Sau khi họ đi khuất cả rồi, vị ấy lấy cây gậy đập xuống đất, lập tức một cung điện hiện ra cao bảy tầng đúng kích thước như trên.

Bấy giờ, triều đình cử hành liên tiếp ba đại lễ cho Mahāpanāda: Lễ Khánh thành cung điện, lễ Phong vương giương chiếc lọng hoàng gia trên đầu chàng và lễ Thành hôn cho chàng. Trong thời gian hành lễ, toàn dân cả hai xứ tụ tập lại tổ chức hội hè yến tiệc suốt bảy năm mà vua cũng không giải tán quần chúng. Xiêm y, đồ trang sức, đồ ẩm thực và mọi thứ khác hoàng gia đều cung cấp đầy đủ cả. Sau bảy năm ấy, dân chúng bắt đầu càu nhàu than phiền và Vua Suruci hỏi tại sao, họ đáp:

– Tâu Ðại vương, trong lúc chúng hạ thần mãi vui chơi hội hè đình đám thì bảy năm đã trôi qua. Thế khi nào thì lễ hội này mới chấm dứt?

Vua đáp:

– Này các hiền hữu, suốt thời gian qua, vương nhi chưa hề một lần nào cười cả. Vậy khi nào vương nhi cười thì ta sẽ giải tán.

Sau đó, dân chúng đi đánh trống và tập hợp các người làm trò múa rối, nhào lộn lại với nhau. Hàng ngàn người diễn trò kéo đến và chia nhau thành bảy ban ca múa, nhưng họ không thể nào làm cho vương tử cười được. Rõ ràng chàng là một người đã từng xem múa hát của các vũ thần chốn thiên đình rồi thì không thể nào ham thích được các vũ công hạ giới như thế này.

Sau đó, hai tên hề múa rối lanh lợi xuất hiện, đó là Bhandukaṇṇa (Tai Cụt) và Pandukaṇṇa (Tai Vàng). Chúng tâu:

– Chúng tiểu thần sẽ làm cho hoàng tử cười.

Bhandukaṇṇa liền hóa phép ra một cây xoài vĩ đại mà gã gọi là “Vô song địch”, mọc lên trước cửa cung, sau đó gã ném ra một cuộn dây làm cho nó mắc vào một cành xoài rồi gã trèo lên cây xoài Vô song địch ấy.

Thời bấy giờ người ta bảo cây xoài Vô song địch ấy là của Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn Thiên vương). Bọn nô lệ của thần Vessavaṇa bắt lấy gã, như thường lệ chặt ra từng khúc và thả xuống đất. Bọn người làm trò ảo thuật kia ghép các khúc đó lại và tưới nước lên. Gã đó liền choàng mớ xiêm y cả bên trong lẫn bên ngoài đều kết bằng hoa rồi đứng dậy bắt đầu ca múa như cũ. Ngay cái cảnh tượng kỳ dị này cũng không làm vương tử cười được.

Sau đó, Pandukaṇṇa chất dầu củi đốt lửa lên trước sân chầu và nhảy vào lửa với đồng bọn múa rối ấy. Khi lửa tan hết, người ta tưới nước vào đó, Pandukaṇṇa cùng cả bọn lại vùng dậy ca múa với đủ xiêm y từ trong ra ngoài kết bằng hoa. Khi dân chúng thấy họ không thể làm cho vương tử cười được thì họ bực tức lắm.

Thiên chủ Đế-thích nhận thấy việc này liền phái xuống một vũ công trên trời, bảo vị ấy làm cho Mahāpanāda cười. Thế rồi vị ấy đứng lơ lửng giữa không gian trên sân chầu và biểu diễn một điệu múa gọi là vũ khúc bán thân, chỉ một tay, một chân, một mắt, một răng nhảy múa rung rinh, lắc lư qua lại, còn mọi phần kia vẫn trơ như đá. Khi Mahāpanāda thấy thế thì chàng hơi nhếch mép cười một chút thôi. Còn dân chúng đều cười rộ lên từng tràng dài và không thể nào kiềm chế chân tay được nữa nên họ cứ lăn quay long lóc khắp cả sân rồng. Thế là kết thúc hội hè. Phần còn lại:

Ðại đế Panāda, chúa đại hùng,

Cung điện của đại đế bằng vàng ròng...

Ðã được giải thích trong Chuyện Đại vương Mahāpanāda.[21]

Vua Mahāpanāda chuyên tâm làm thiện sự và bố thí nên lúc mạng chung được sinh lên thiên giới.

***

Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, Visākhā đã nhận được điều ước Ta ban thuở trước kia.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ, Bhaddaji là Mahāpanāda, Visākhā là Hoàng hậu Sumedhā, Ānanda là Vissakamma và Ta chính là Thiên chủ Đế-thích.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.