Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§488. CHUYỆN CỦ SEN (Bhisajātaka)[10] (J. IV. 304)
Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân...
Chuyện này do bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất. Trường hợp này cũng sẽ xuất hiện trong Chuyện Đại đế Kusa.[11] Ở đây, một lần nữa, bậc Ðạo sư hỏi:
– Này Tỷ-kheo, có đúng là ông đã thối thất chăng?
– Bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.
– Vì cớ gì?
– Bạch Thế Tôn, vì ác dục.
– Này Tỷ-kheo, tại sao đã xuất gia trong giáo pháp đưa đến giải thoát như vậy mà ông lại thối thất chỉ vì ác dục? Ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, những bậc Trí nhân khởi đầu cuộc sống tu hành, ngay cả những vị ngoại đạo cũng đã phát hạnh nguyện và đoạn trừ ngay các tưởng khởi lên có liên hệ đến các dục hoặc sức cám dỗ của dục.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con trai của một đại danh gia Bà-la-môn có tài sản đến tám trăm triệu đồng tiền. Gia đình đặt tên ngài là Mahākañcana (Ðại Hoàng Kim). Vào lúc ngài mới biết đi chập chững, một bé trai khác lại được sinh ra trong nhà vị Bà-la-môn ấy và đặt tên là Upakañcana (Tiểu Hoàng Kim). Cứ như vậy, bảy nam nhi liên tiếp ra đời và cuối cùng là một quý nữ, được đặt tên là Kañcanadevi (Công nương Hoàng Kim).
Khi Mahākañcana lớn lên, ngài đi học tập tại Takkasilā đầy đủ mọi môn học thuật rồi trở về nhà. Lúc ấy, song thân ngài muốn lập cho ngài một gia thất riêng. Hai vị bảo:
– Cha mẹ sẽ tìm cho con một thiếu nữ nhà lành để kết bạn xứng đáng với con rồi con sẽ yên bề gia thất.
Song ngài đáp:
– Thưa cha mẹ, con không muốn lập gia đình. Ðối với con, ba cõi sinh hữu đều như lửa đốt, bị trói buộc xiềng xích như ngục tù, đáng ghê tởm tựa đống phân. Con chẳng hề có ý nghĩ gì về việc đó dù chỉ là trong giấc mộng. Cha mẹ có các con trai kia, xin bảo chúng làm chủ gia đình và để cho con yên thân.
Dù hai vị van nài ngài nhiều lần, nhờ bạn hữu của ngài đến năn nỉ ngài tha thiết, ngài cũng chẳng muốn gì về việc ấy cả. Sau đó, bạn bè hỏi ngài:
– Này Hiền hữu, thế bạn muốn gì mà bạn chẳng thiết tha đến việc tận hưởng tình yêu và lạc thú?
Ngài bảo họ, ngài đã từ bỏ thế tục. Khi song thân hiểu việc này, hai vị đề nghị việc kia với các con trai thứ, nhưng chẳng ai chịu nghe cả, ngay cả Kañcanadevi cũng không. Dần dà cha mẹ qua đời, Trí giả Mahākañcana làm lễ an táng song thân xong, với kho tàng tám trăm triệu ấy, ngài phân phát hào phóng cho tất cả những người hành khất và du sĩ rồi đem sáu em trai cùng em gái, một gia nhân và một nữ tỳ cùng một người bạn đường làm một đại sự. Họ xuất gia và sống ẩn dật trong dãy Tuyết Sơn.
Tại đó, trên một vùng đất vừa ý gần một hồ sen, các vị xây một khu am thất ẩn cư tu hành và ăn toàn trái cây, củ rừng. Khi họ vào rừng, chỉ đi từng người một, nếu có vị nào thấy trái cây hay lá rau gì liền gọi các vị kia. Và tại đó, vừa bảo nhau những điều gì nghe thấy được, các vị vừa thu lượm các thức ăn sẵn có, chẳng khác gì cái chợ nhỏ trong làng. Song bậc Sư trưởng, vị khổ hạnh Mahākañcana lại nghĩ thầm: “Ta đã bỏ qua cả gia sản tám trăm triệu và sống đời tu hành rồi để ham đi quanh quẩn kiếm trái rừng, thật chẳng hợp lý. Từ nay, ta muốn một mình ta đi lượm trái rừng thôi.” Sau đó trở về nhà, buổi tối ngài tập hợp mọi người lại và nói cho họ biết ý định của ngài:
– Các em cứ ở đây và tu tập đời ẩn sĩ, để ta đi hái quả cho các em.
Nghe vậy, Upakañcana và các người kia ngắt lời:
– Chúng tiểu đệ đã theo hiền huynh đi tu hành, vậy chính hiền huynh phải ở nhà và tu tập đời ẩn sĩ, hiền muội cũng ở nhà cùng với nữ tỳ. Tám người chúng em thay phiên nhau đi hái quả, còn ba người ở nhà khỏi làm việc ấy.
Ngài đồng ý. Từ đó, tám người này thay phiên nhau đem trái cây về từng người một. Các người kia nhận được phần chia trong số kiếm được và mang đi về am thất của mình rồi ở trong lều tranh riêng của mỗi người. Như vậy, các vị ấy không gặp gỡ nhau nếu không có duyên cớ. Người nào đến phiên mang thức ăn vào để ở một khu đất có rào thì đặt trên một phiến đá phẳng, chia ra mười một phần rồi đánh cồng lên, sau đó lấy phần mình đi về chỗ của mình. Khi nghe tiếng cồng các vị kia đến, không chen lấn nhau mà theo đúng lễ nghi trật tự, nhận phần mình đã được chia từ các thức kiếm được rồi trở về chỗ của mình mới ngồi ăn và sau đó lại tiếp tục hành thiền, tu tập khổ hạnh.
Sau một thời gian, họ lượm các củ sen để ăn và sống tại đó, tự hành xác với lửa nóng như thiêu như đốt và các loại cực hình khác nên các giác quan đều tê liệt cả trong khi họ cố hết sức để nhập định. Vì công hạnh sáng chói của họ, chiếc ngai của Thiên chủ Đế-thích nóng rực lên. Ngài bảo:
– Các vị này chỉ thoát khỏi tham dục thôi, hay họ là các vị Hiền nhân rồi? Họ có phải Hiền nhân chăng? Nay ta muốn tìm hiểu xem sao.
Thế là nhờ thần lực của mình, suốt ba ngày Thiên chủ làm cho phần thực phẩm của Bồ-tát biến mất. Ngày đầu tiên, khi không thấy phần của mình, ngài nghĩ: “Có lẽ phần của ta đã bị quên mất.” Vào ngày thứ hai: “Chắc hẳn ta có lỗi lầm nào. Chính là vì muốn nhắc nhở ta về điều này một cách cung kính mà người đó không chia phần cho ta.” Vào ngày thứ ba: “Tại sao họ lại không chia phần cho ta như thế được? Nếu ta có gì lỗi lầm thì ta phải hòa giải phần mình trước.”
Vì thế, buổi tối ngài đánh cồng lên. Tất cả đều đến và hỏi ai đã đánh cồng.
– Này các hiền đệ, chính ta đánh.
– Thưa Tôn sư, tại sao vậy?
– Này các hiền đệ, trong ba ngày qua, ai đem thức ăn vào?
Một người đứng dậy nói:
– Chính tiểu đệ.
Rồi vị ấy vẫn đứng yên rất cung kính.
– Khi hiền đệ chia phần, có để dành phần cho ta chăng?
– Có chứ, thưa Tôn sư, đó là phần của vị Sư trưởng.
– Còn ai mang về thực phẩm hôm qua?
Một người khác đứng lên và nói:
– Chính tiểu đệ.
Rồi vị ấy kính cẩn đứng chờ.
– Thế hiền đệ có nhớ phần ta chăng?
– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.
– Thế hôm nay ai đem thực phẩm về?
Một người nữa đứng dậy và kính cẩn đứng chờ.
– Hiền đệ có nhớ chia phần cho ta không?
– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.
Ngài liền bảo:
– Này các hiền đệ, hôm nay là ngày thứ ba ta không có phần ăn. Ngày đầu tiên ta không thấy phần của mình, ta nghĩ người nào chia phần đã quên ta. Ngày thứ hai, ta nghĩ chắc ta đã phạm lỗi lầm gì. Song hôm nay, ta quyết định rằng nếu có lỗi lầm gì, ta sẽ hòa giải và vì thế ta đánh cồng triệu tập các hiền đệ. Các hiền đệ bảo đã để các phần củ sen cho ta mà ta chẳng có được chút gì cả. Ta phải tìm hiểu xem ai đã lấy trộm và ăn hết phần đó. Khi ta đã từ bỏ cuộc đời và mọi tham dục ở đời rồi thì lấy trộm là chuyện không đúng đắn dù chỉ là một củ sen.
Khi các vị kia nghe thấy lời ấy, họ đồng kêu to:
– Ôi, thật là một việc ác!
Và tất cả các vị đều lo lắng vô cùng.
Lúc bấy giờ, vị thần trú trên cây gần am thất ấy, đó là cây cổ thụ lớn nhất rừng, bước ra ngồi giữa các vị. Cũng vậy, có một con voi, không thể nào chịu nổi sự huấn luyện mà không đau đớn nên phá chiếc cọc ở nơi nó bị trói vào rồi chạy trốn vào rừng. Thỉnh thoảng, voi thường đi đến kính lễ các vị Hiền giả này nên bây giờ nó cũng đến đứng một bên. Có một con khỉ đã được huấn luyện để làm trò với bầy rắn, cũng chạy trốn thoát khỏi tay người luyện rắn vào trong rừng, nó ở tại vùng am thất ấy nên hôm nay nó cũng đến kính lễ các Hiền giả và đứng sang một bên. Thiên chủ Đế-thích quyết tâm thử các vị ẩn sĩ này nên cũng tàng hình đứng cạnh hội chúng.
Lúc ấy, vị em kế của Bồ-tát, ẩn sĩ Upakañcana từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngài rồi cúi chào khắp hội chúng và nói như sau:
– Bạch Tôn sư, không kể đến các người kia, tiểu đệ xin được phép thanh minh cho mình khỏi tội này được chăng?
– Này hiền đệ, được lắm!
Vị ấy đứng lên giữa các Hiền nhân và nói:
– Nếu đệ đã ăn các củ sen của Tôn sư, đệ sẽ thành một người như vầy, như vầy.
Và vị ấy trang nghiêm phát nguyện qua vần kệ đầu:
78. Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân,
Vợ quý, nó giữ gìn luyến thương,
Mong nó sinh nhiều trai gái đủ,
Kẻ ăn phần trộm của La-môn!
Nghe thế, các vị tu khổ hạnh kia đều đặt tay lên hai tai và kêu to:
– Không, không, thưa Tôn sư, lời thề nguyền ấy quả thật nặng nề lắm!
Và Bồ-tát cũng nói:
– Này hiền đệ, lời nguyền của em nặng lắm đấy! Em không ăn phần đó, thôi ngồi xuống nệm rơm đi.
Vị ấy sau khi thề nguyện xong liền ngồi xuống. Người em thứ hai đứng lên đảnh lễ bậc Ðại sĩ và ngâm vần kệ thứ hai để thanh minh cho mình:
79. Mong nó nhiều con, lắm áo quần,
Vòng hoa tay khoác, ngát chiên-đàn,
Tâm tư sôi sục đầy tham dục,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi đạo nhân!
Khi vị ấy ngồi xuống, các vị kia lần lượt ngâm vần kệ.
[Vị thứ ba:]
80. Mong nó nhiều danh vọng, ruộng vườn,
Nhà kho, con cái, sẵn sàng dâng,
Nó không hiểu tháng năm dần mất,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi đạo nhân!
[Vị thứ tư:]
81. Mong nó lừng danh đại tướng quân,
Ðế vương tối thượng ngự huy hoàng,
Thế gian bốn cõi đều phần nó,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi đạo nhân!
[Vị thứ năm:]
82. Mong nó trở thành một đạo nhân,
Mà không chế ngự được tham sân,
Chỉ tin tinh tú, ngày lành tốt,
Ðược hiển vinh nhờ các đế vương,
Ân thưởng, kẻ ăn phần trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!
[Vị thứ sáu:]
83. Vệ-đà, mong nó học uyên thâm,
Người quý trọng đức độ Thánh nhân,
Mong nó được muôn người bái phục,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!
[Người bạn đường:]
84. Ơn trời cho nó được ngôi làng,
Có đủ giàu sang bốn loại hàng,
Khi chết, dục tham không chế ngự,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!
[Gia nhân:]
85. Nó làm lý trưởng, bạn quây quần,
Vũ khúc, hoan ca, nhạc đắm hồn,
Sẽ chịu rủi ro nào của chúa,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!
[Tiểu muội:]
86. Mong nàng làm tuyệt thế giai nhân,
Chúa tể thế gian chọn má hồng,
Chánh hậu giữa muôn người toại ý,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!
[Nô tỳ:]
87. Khi mọi nữ tỳ tập hợp xong,
Mong nàng oai vệ ngự ngai vàng,
Cao lương mỹ vị đầy ngon ngọt,
Kiêu hãnh vì ân phước của nàng,
Người đã lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!
[Thần cây:]
88. Mong nó bảo tồn viện Kajañ,
Trùng tu quang cảnh đã tiêu tàn,
Hàng ngày làm cửa song nhà mới,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi đại nhân!
[Con voi:]
89. Mong nó bị người bắt lấy thân,
Sáu trăm dây trói tự rừng hoang,
Mang về thành, bị người vây đánh,
Bằng gậy, giáo, gươm, phải phát cuồng,
Kẻ đã lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!
[Con khỉ:]
90. Vòng hoa trên cổ, chì đeo tai,
Mong nó đi đường, khiếp sợ oai,
Chiếc gậy luyện chơi gần lũ rắn,
Kẻ ăn phần trộm ấy, thưa ngài!
Khi cả hội cùng thề nguyện xong qua mười ba vần kệ này, Bồ-tát suy nghĩ: “Có lẽ chúng tưởng chính ta nói dối rằng không có phần ăn để đó trong khi nó vẫn có”, vì thế ngài cũng thề nguyền phần mình qua vần kệ thứ mười bốn:
91. Ai thề thực phẩm biến đi rồi,
Mà nếu không mất mát, vậy thời,
Mong nó hưởng tràn đầy dục lạc,
Và mang kết quả việc kia hoài,
Ước mong cái chết đầy phàm tục,
Số phận dành cho nó cuối đời,
Ðiều ấy cũng dành cho quý vị,
Nếu bây giờ quý vị nghi tôi!
Khi các bậc Hiền nhân đã thề nguyền như thế xong, Thiên chủ Đế-thích nghĩ thầm: “Ðừng sợ gì cả. Ta đã làm cho các củ sen kia biến mất để thử các người này và nay các vị ấy đều thề nguyền cả, lại đều ghê tởm hành động ấy như thể một cục đờm phải nhổ. Nay ta muốn hỏi các vị tại sao lại ghê tởm dục tham như vậy.” Thiên chủ đặt câu hỏi này để chất vấn Bồ-tát trong vần kệ tiếp, sau khi Thiên chủ đã hiện nguyên hình:
92. Người kiếm tìm luôn ở cõi trần,
Cái điều vui đẹp, thiết thân lòng,
Ðược nhiều kẻ ước mong mê mẩn,
Như vậy, vì sao các Thánh nhân,
Lại chẳng tán dương nhiều sự việc,
Vẫn thường ham muốn bởi phàm nhân?
Ðể trả lời câu hỏi này, Bồ-tát ngâm hai vần kệ:
93. Tham dục là tai họa chết người,
Là dây xiềng xích trói trên đời,
Ở trong ác dục, ta tìm thấy,
Ðau khổ và kinh hãi cả thôi,
Khi bị dục tham nào cám dỗ,
Vua thường phạm tội, đắm say hoài.
94. Phải vào địa ngục, các phàm nhân,
Gây tội khi tan rã nhục thân,
Vì biết khổ đau trong ác dục,
Bậc Hiền chê trách, chẳng đồng lòng.
Khi Thiên chủ Đế-thích nghe Bồ-tát giải thích xong, lòng đầy xúc động nên ngài ngâm vần kệ này:
95. Chính ta trộm, thử các Hiền nhân,
Ta đặt bên hồ các thức ăn,
Bậc Trí thật hiền lương thánh thiện,
Hỡi người Phạm hạnh, hãy nhìn phần!
Nghe thế, Bồ-tát liền ngâm kệ nữa:
96. Chúng ta không múa rối vui chơi,
Làm các trò tiêu khiển với ngài,
Chẳng quyến thuộc ngài, hay bạn hữu,
Tại sao vậy thế, hỡi Vua trời?
Thưa ngài Ngàn mắt, sao ngài nghĩ,
Bậc Trí bày trò giải trí thôi?
Thiên chủ Đế-thích ngâm vần kệ thứ hai mươi để làm lành với ngài:
97. Ngài chính là Sư trưởng đại nhân,
Chính ngài là một vị cha thân,
Chở che cho trẫm đà sai phạm,
Xin hãy thứ tha trót lỗi lầm,
Chẳng có bao giờ, thưa Thánh giả,
Bậc Hiền lại phát khởi lòng sân!
Bậc Ðại sĩ liền tha thứ cho Thiên chủ Đế-thích, và về phần ngài, để hòa giải với các Thánh nhân kia, ngài ngâm vần kệ nữa:
98. An lạc một đêm với Thánh nhân,
Chúng ta hội kiến đấng Thiên vương,
Chư hiền, hãy đẹp lòng khi thấy,
Thực phẩm mất nay được phục hoàn.
Thiên chủ Đế-thích liền đảnh lễ hội chúng Hiền nhân rồi trở về thiên giới. Còn các vị ấy đã làm cho phát khởi thiền định và các thắng trí trong tâm nên về sau được sinh lên cõi Phạm thiên.
***
Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, như vậy các bậc Trí ngày xưa đã phát hạnh nguyện và từ bỏ ác dục.
Nói xong, Ngài thuyết giảng các sự thật. Vào lúc kết thúc các sự thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đã được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Và Ngài ngâm ba vần kệ này để nhận diện tiền thân:
99. Mục-liên, Xá-lợi-phất và Ta,
Ca-diếp, A-na-luật, Phú-lâu-na,
Cùng với A-nan-đà[12] thuở ấy,
Thất hiền huynh đệ chốn kia mà.
100. Liên Hoa Sắc,[13] tiểu muội ngày xưa,
Tỳ nữ Khujju,[14] thuở bấy giờ,
Cổ thụ thần kia, Sātā[15] đó,
Citta[16] gia chủ chính gia nô.
101. Con voi ngày trước chính Pāri,[17]
Con khỉ là Madhuva[18] đây,
Đế-thích là Kāḷu[19] thuở ấy,
Chúng Tăng giờ hiểu tiền thân này.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.