Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§487. CHUYỆN NAM TỬ UDDĀLAKA (Uddālakajātaka)[8] (J. IV. 296)
Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người gian dối.
Người này, mặc dù đã đặt cuộc đời mình vào giáo pháp đưa đến giải thoát, nhưng trong lúc muốn kiếm lợi dưỡng cần dùng để sống, đã hành động lừa dối cả ba mặt. Tăng chúng đều rõ ra những ác hạnh của người này trong lúc bàn luận tại pháp đường:
– Này các Hiền giả, người đó sau khi đã đặt hết cuộc đời mình vào giáo pháp của đức Phật đưa tới giải thoát, lại sống lừa dối kẻ khác.
Bậc Ðạo sư bước vào và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì tại đó. Tăng chúng trình với Ngài, Ngài bảo:
– Ðây không phải là lần đầu tiên, kẻ ấy trước kia cũng đã lừa dối rồi.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị tế sư rất thông thái. Một ngày kia, ngài vào vườn hoa để giải trí, chợt thấy một cô gái có sắc đẹp lẳng lơ, đâm say mê nàng và đem nàng về nhà mình chung sống.
Khi thấy mình thọ thai, nàng liền bảo ngài:
– Thưa đại quan, thiếp đã có thai, khi sinh con, thiếp sẽ đặt tên cho nó là gì?
Ngài suy nghĩ: “Chẳng bao giờ tên họ của một dòng quý tộc lại đặt cho đứa con hoang của một nô tỳ.” Vì thế, ngài bảo:
– Này ái nương, cây này tên là uddāla (quế), nàng có thể đặt tên con là Uddālaka vì nó thọ thai ở gốc cây này.
Sau đó, ngài cho nàng một chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng và bảo:
– Nếu nó là con gái, hãy dùng chiếc nhẫn này mà nuôi dưỡng nó cho lớn khôn, còn nếu là con trai thì hãy đem đến cho ta lúc nó trưởng thành!
Ðến kỳ hạn, nàng sinh hạ một con trai và đặt tên là Uddālaka. Khi chàng trai lớn lên, chàng hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, cha con là ai thế?
– Là vị tế sư đấy con ạ.
– Nếu vậy, con sẽ học các kinh Thánh.
Thế là khi nhận được chiếc nhẫn từ tay mẹ và số học phí dành cho thầy giáo, chàng lên đường đi đến Takkasilā và học ở đó với một giáo sư lừng danh thế giới. Trong thời gian học tập, chàng thấy một nhóm người tu khổ hạnh. Chàng suy nghĩ: “Những người kia chắc chắn phải có kiến thức vẹn toàn, vậy ta muốn học hỏi ở họ.” Vì thế, chàng từ giã thế tục, và vì chàng ước mong có được kiến thức nên làm việc phục dịch các vị này, chỉ yêu cầu các vị ấy dạy lại cho chàng những kiến thức thông thái của họ. Thế rồi, các vị ấy dạy cho chàng mọi điều hiểu biết, song giữa năm trăm người ấy, chẳng có ai vượt chàng về kiến thức cả, chàng là người thông thái nhất.
Sau đó, những người ấy tập hợp lại và bầu chàng làm thầy. Chàng bảo họ:
– Thưa các Tôn giả, các ngài sống suốt đời ở trong rừng ăn toàn hoa quả, củ rừng. Tại sao các ngài không đi đến chỗ của người thế tục?
– Thưa Tôn giả, người đời muốn cúng dường chúng ta nhưng lại muốn chúng ta trả ơn bằng cách thuyết pháp, họ hay hỏi chúng ta nhiều chuyện lắm. Vì sợ điều này nên chúng ta không muốn đến sống giữa người đời.
Chàng đáp:
– Thưa các Tôn giả, nếu các ngài có ta cùng đi thì cứ để một vị Chuyển Luân Vương cật vấn, một mình ta sẽ giải đáp ổn thỏa, đừng sợ gì cả!
Thế là chàng cùng hội chúng đi du hành khất thực để sống và cuối cùng đến Ba-la-nại, trú ngụ trong vườn ngự uyển. Hôm sau, cùng với những người ấy, chàng khất thực ở một làng trước cổng thành. Dân chúng bố thí rất nhiều. Ngày hôm sau nữa, các nhà tu khổ hạnh đi qua kinh thành, dân chúng lại bố thí rất nhiều. Vị khổ hạnh Uddālaka nói lời tùy hỷ công đức rồi giải đáp những lời chất vấn. Dân chúng rất hoan hỷ và lại cúng dường phong phú cho hội chúng mọi thứ cần dùng. Toàn kinh thành vang dậy tin đồn:
– Một vị giáo sư thông thái mới đến, một vị Thánh nhân khổ hạnh.
Và vua nghe được tin đó. Nhà vua hỏi:
– Các vị ấy đang ở đâu?
Dân chúng tâu:
– Trong ngự uyển.
Nhà vua bảo:
– Tốt lắm, hôm nay ta sẽ đi thăm các vị ấy.
Một người đi báo với Uddālaka:
– Ðức vua sẽ đến viếng các Tôn giả hôm nay.
Chàng gọi hội chúng lại và bảo:
– Này các Tôn giả, đức vua sắp đến, hãy chiếm cho được ân vua trong một ngày cũng đủ cho cả đời người!
– Vậy ta phải làm gì, thưa Sư trưởng?
Chàng đáp:
– Một vài vị phải chịu khổ hình treo người lủng lẳng,[9] vài vị ngồi xổm dưới đất, vài vị nữa nằm trên giường chông, vài vị khác chịu khổ hạnh với năm ngọn lửa, thêm vài vị ngâm mình xuống nước và vài vị tụng Thánh kinh ở chỗ này chỗ nọ.
Các vị ấy làm y lời. Chính chàng cùng độ mười vị Hiền giả ngồi trên một chỗ đã soạn sẵn có lót gối dựa, bàn luận với nhau; có một quyển sách đẹp cân xứng nằm trên một cái giá mực sang trọng bên cạnh chàng và thính chúng vây quanh.
Lúc ấy, vua và vị tế sư cùng với đoàn tùy tùng đông đảo bước vào ngự uyển, và khi vua thấy tất cả hội chúng ở đây đang chuyên chú trong dáng điệu khổ hạnh như vậy, vua rất hoan hỷ, nghĩ thầm: “Các vị này đều giải thoát khỏi nỗi lo âu về các cõi dữ ở đời sau rồi.” Khi đến gần Uddālaka, vua ân cần đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Rồi với lòng hân hoan, vua bắt đầu nói chuyện với vị tế sư và ngâm vần kệ đầu:
62. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm lời Thánh đạo bình an,
Chẳng từ nan nhiều phương tiện Hiền nhân,
Chắc đã đạt chân như và giải thoát.
Nghe vậy, vị tế sư nghĩ:
– Ðức vua hoan hỷ ở một chỗ đáng lẽ không nên hoan hỷ, vậy ta không được giữ yên lặng.
Rồi ngài ngâm vần kệ:
63. Một Trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một Trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn,
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.
Khi Uddālaka nghe những lời này liền nghĩ thầm: “Vua hài lòng về những vị khổ hạnh này, song vị tế sư lại đụng ngay vào mõm con bò khi chạy quá nhanh, làm rơi đồ dơ vào đĩa cơm đã dọn sẵn. Ta phải nói chuyện với vị ấy mới được.” Vì thế, chàng đáp lời ngài qua vần kệ thứ ba:
64. Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn,
Khi việc hỏng, hoặc cứu người nguy khốn,
Kinh Vệ-đà hẳn là đồ vô dụng,
Chánh đạo là làm chánh, tự điều thân.
Vị tế sư nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ tư:
65. Không phải thế, Vệ-đà không vô dụng,
Dù tự điều thân là đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh.
Bấy giờ, Uddālaka suy nghĩ: “Gây gổ với vị này sẽ không bao giờ ích lợi đâu. Nếu ta bảo ngài ta chính là con trai của ngài, ngài phải thương yêu ta. Vậy ta phải quyết cho ngài biết ta là con của ngài.” Thế rồi chàng ngâm vần kệ thứ năm:
66. Cha mẹ và thân quyến họ hàng,
Ðòi ta chăm sóc với yêu thương,
Mẹ cha là bản thân con đó,
Con Uddāla chính búp non,
Từ gốc rễ nhà ngài quý tộc,
Thưa ngài, Tôn giả Bà-la-môn.
Ngài hỏi:
– Thế con chính là Uddālaka đấy ư?
Chàng đáp:
– Thưa, chính phải.
Sau đó, ngài hỏi:
– Trước kia, ta đã cho mẹ con một vật làm tin, nay nó đâu rồi?
Chàng đáp:
– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, chính nó đây!
Rồi chàng trao chiếc nhẫn cho ngài. Ngài nhận ra chiếc nhẫn ấy rồi bảo:
– Con là một Bà-la-môn hẳn nhiên rồi, song có biết phận sự của một Bà-la-môn chăng?
Ngài hỏi về các phận sự này qua vần kệ thứ sáu:
67. Ðiều gì thành tựu một La-môn,
Vị ấy làm sao được thiện toàn,
Hãy nói thế nào người chánh hạnh,
Làm sao đạt hạnh phúc Niết-bàn?
Uddālaka giải thích việc ấy qua vần kệ thứ bảy:
68. Bỏ đời, sùng bái lửa thiêng hồng,
Vung gậy tế đàn, rảy nước trong,
Phận sự làm xong, người tán tụng,
La-môn như vậy được an lòng.
Vị tế sư lắng nghe chàng kể các phận sự của một vị Bà-la-môn như vậy xong, ngài ngâm vần kệ thứ tám để phê bình chuyện ấy như sau:
69. Rảy nước không làm sạch đạo nhân,
Thiện toàn chẳng phải việc đăng đàn,
Cũng không an ổn và thân ái,
Chẳng đạt tối cao lạc Niết-bàn.
Nghe thế, Uddālaka lại hỏi:
– Nếu việc này không làm thành một Bà-la-môn, thế thì việc gì?
Và chàng ngâm vần kệ thứ chín:
70. Ðiều gì thành tựu hạnh La-môn,
Vị ấy làm sao được thiện toàn,
Xin bảo thế nào người chánh hạnh,
Làm sao thành tựu lạc Niết-bàn?
Vị tế sư đáp lời qua vần kệ khác:
71. Người không của cải, chẳng nương đồng,
Không có họ hàng, chẳng ước mong,
Chẳng thiết cuộc đời, không ái dục,
Hoặc không ác hạnh, thảy đều không.
Ðạo nhân vậy đạt tâm thanh tịnh,
Giữ phận chánh chân, được tán đồng.
Sau đó, Uddālaka lại ngâm kệ nữa:
72. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
Vậy ai cao trọng, ai hèn kém,
Giữa các Thánh hiền tối thượng chăng?
Khi đó, vị Bà-la-môn kia ngâm vần kệ nêu rõ ràng không có ai cao, ai thấp khi đã đạt Thánh quả:
73. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém,
Giữa các bậc Hiền thánh đại nhân.
Song Uddālaka phê bình điểm này bằng cách ngâm vần kệ:
74-75. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người này đức hạnh,
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém,
Giữa các bậc Hiền thánh đại nhân,
Giáo sĩ, vậy ngài vô tích sự,
Hư danh địa vị, hẳn rồi chăng?
Ðến đây, vị tế sư ngâm đôi vần kệ nữa cùng với một ví dụ:
76. Với tấm vải thô nhuộm đủ màu,
Ngôi đình được dựng, mái đình cao,
Ðỉnh tròn rực rỡ đầy màu sắc,
Bóng đổ một màu vẫn giống nhau.
77. Vậy khi nhiều kẻ đạt thanh tâm,
Tại chính nơi đây, giữa cõi trần,
Người thiện thấy toàn là bậc Thánh,
Chẳng hề hỏi huyết thống nguồn căn.
Bấy giờ, Uddālaka không còn nói gì được nữa nên chàng ngồi yên lặng. Lúc ấy, vị tế sư Bà-la-môn nói với vua:
– Tâu Ðại vương, tất cả bọn này đều là phường dối trá, toàn cõi Diêm-phù-đề sẽ bị suy tàn vì nạn lừa dối kia. Xin Ðại vương hãy khuyến dụ Uddālaka từ bỏ việc hành trì khổ hạnh của nó và làm tế sư theo gót hạ thần, lại cho phép những người này khỏi phải tu tập khổ hạnh rồi cho chúng đủ gươm, giáo, mộc để làm tùy tùng của Ðại vương.
Vua chấp nhận, làm theo lời ngài dạy và tất cả những người ấy đều đến phụng sự vua.
***
Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên mà kẻ này trước kia cũng đã làm một tên lừa đảo.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, Tỷ-kheo gian dối này là Uddālaka, Ānanda là vua và Ta chính là vị tế sư.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.