Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§484. CHUYỆN CÁNH ĐỒNG LÚA SĀLI (Sālikedārajātaka) (J. IV. 276)
Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình. Chuyện này sẽ được giải thích trong Chuyện hiếu tử Sāma.[1]
Lúc ấy, bậc Ðạo sư cho gọi Tỷ-kheo này đến và hỏi:
– Này Tỷ-kheo, Ta nghe nói ông cấp dưỡng người thế tục, có đúng vậy chăng?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
– Họ là ai thế?
– Bạch Thế Tôn, chính là song thân của con.
Bậc Ðạo sư bảo:
– Này Tỷ-kheo, tốt lành thay! Các Trí nhân ngày xưa, ngay khi còn mang thân thú vật hạ liệt, dù chỉ sinh làm loài anh vũ, nhưng khi cha mẹ già yếu, đã đem cha mẹ vào tổ và nuôi nấng bằng chính thức ăn mà chúng ngậm về trong mỏ của mình.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, vị vua mệnh danh là Ðại vương Magadha (Ma-kiệt-đà) trị vì Rājagaha (Vương Xá). Thời ấy, có một làng Bà-la-môn tên là Sālindiya[2] ở phía Đông Bắc kinh thành này. Vùng Đông Bắc này là địa phận thuộc về nước Ma-kiệt-đà. Có một Bà-la-môn sống ở Sālindiya tên là Kosiyagotta, chiếm giữ điền sản cả ngàn mẫu đất để trồng lúa. Khi vụ mùa đến, ông làm một hàng rào vững chắc, giao đất cho các gia nhân, có người được năm mươi mẫu, người khác sáu mươi mẫu, và cứ như vậy, vị địa chủ chia khoảng năm trăm mẫu đất cho các gia nhân.
Còn năm trăm mẫu kia, ông giao cho một người làm thuê lấy công, người ấy dựng túp lều và ở đó suốt ngày đêm. Lúc bấy giờ, về phía Đông Bắc vùng đồng ruộng này là một khu rừng cây bông vải rộng lớn mọc trên một ngọn đồi bằng phẳng, trong rừng này có một đàn chim anh vũ (chim két) rất đông.
Vào thời ấy, Bồ-tát sinh vào đàn chim anh vũ này, làm vương tử của chúa anh vũ. Ngài lớn lên đẹp và khỏe mạnh, thân lớn bằng cái trục bánh xe. Khi chim chúa đã già, bảo ngài:
– Nay ta không thể nào bay ra đồng được nữa, con hãy chăm sóc cả đàn chim này!
Và phong cho ngài chức chim chúa. Từ hôm sau, ngài không chịu để cha mẹ đi kiếm mồi nữa mà ngài cùng cả đàn bay về vùng Tuyết Sơn, và sau khi ăn lúa no nê từ đám ruộng mọc hoang tại đó, ngài trở về mang đầy đủ thức ăn để nuôi cha mẹ. Một ngày kia, đàn chim anh vũ hỏi ngài một chuyện. Chúng nói:
– Trước đây, vào lúc này lúa đã chín trong nông trại ở Ma-kiệt-đà, bây giờ lúa có được trồng nữa chăng?
Ngài đáp:
– Cứ đi xem!
Rồi ngài bảo hai chim anh vũ đi tìm hiểu. Ðôi chim anh vũ bay đi và hạ cánh xuống đồng bằng xứ Ma-kiệt-đà ở phần đất được người làm mướn canh giữ, chúng ăn lúa rồi mang một cọng lúa về rừng, thả xuống trước đôi chân của Bồ-tát và nói:
– Lúa này mọc tại đó.
Hôm sau, ngài bay đến nông trại đó và hạ xuống cùng với cả đàn chim. Người làm công ấy cứ chạy đằng này đến chạy đằng kia cố xua đuổi đàn chim, song không thể nào đuổi chúng được. Cả đàn anh vũ ăn lúa xong, ra đi với những mỏ trống không, nhưng chim anh vũ chúa thu lượm một số lúa mang về cho cha mẹ.
Hôm sau, bầy anh vũ lại đến đó ăn lúa lần nữa và hôm sau nữa cũng vậy. Lúc ấy người kia bắt đầu suy nghĩ: “Nếu những con vật này cứ tiếp tục ăn thêm vài ngày nữa thì ta chẳng còn chút gì. Vị Bà-la-môn kia sẽ định giá cả cho cả đám lúa này và sẽ phạt tiền ta. Ta phải đi báo cho ông ấy biết.” Vừa cầm lấy một nắm lúa và một món quà kèm theo, gã đi đến gặp vị Bà-la-môn kia, kính chào vị ấy và đứng sang một bên. Ông chủ bảo:
– Nào, anh bạn, có được mùa lúa chăng?
– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, được mùa lắm!
Gã đáp và ngâm hai vần kệ:
Song tôi xin nói để ngài hay,
Ðàn anh vũ phá tan đồng lúa,
Tôi chẳng làm sao đuổi chúng bay.
2. Có một chim kia đẹp nhất đàn,
Trước tiên tìm lúa chín mà ăn,
Rồi mang một nắm vào trong mỏ,
Ðể sẵn mai sau những lúc cần.
Khi vị Bà-la-môn nghe chuyện này, lòng phát sinh mối tình thương cảm đối với chim anh vũ chúa. Ông hỏi:
– Này chú, thế chú có biết cách đặt bẫy chăng?
– Thưa Tôn giả, tôi có biết.
Ông chủ ấy liền nói với gã qua vần kệ này:
3. Ðặt bẫy lông đuôi ngựa thế này,
Chim kia rồi cũng bị sa ngay,
Bắt cho cẩn thận, chim còn sống,
Rồi lấy chim về gặp lão đây.
Người giữ ruộng rất vui mừng vì ông chủ không định giá tiền về đám lúa kia và không ai nhắc gì đến nợ nần cả. Gã đi ngay và làm một cái bẫy bằng lông đuôi ngựa. Sau đó, gã tìm hiểu xem lúc nào đàn chim sắp đáp xuống ngày hôm ấy, rồi gã thấy được nơi chim anh vũ chúa đậu. Hôm sau, từ sáng sớm gã làm một cái lồng to cỡ bằng cái bình nước và đặt bẫy rồi ngồi trong lều đợi đàn chim đến.
Chim chúa đến giữa đàn và chim không tỏ chút gì tham ăn, vừa bước xuống đúng nơi đã đậu ngày hôm qua thì chân đặt ngay vào chiếc thòng lọng. Khi chim thấy chân bị siết chặt liền nghĩ thầm: “Nếu bây giờ ta thốt lên tiếng kêu của con chim mắc bẫy thì đàn chim thân thuộc của ta sẽ kinh hoàng và chạy trốn mà chưa ăn được gì. Vậy ta hãy chịu đựng cho đến khi chúng ăn xong!”
Cuối cùng, khi chim chúa thấy chúng đã no nê, mới lo sợ cho tính mạng của mình mà thốt lên ba lần tiếng kêu của con chim bị nạn. Cả đàn chim bay trốn mất. Lúc ấy, chim anh vũ chúa bảo:
– Cả đàn chim bà con quyến thuộc của ta đây, chẳng con nào quay lại nhìn ta nữa! Ta đã phạm tội gì vậy?
Và chim cảm hứng ngâm vần kệ quở trách chúng:
4. Bầy chim ăn uống thật no say,
Rồi chúng liền tung cánh vút bay,
Bị bắt mình ta vào chiếc bẫy,
Ta đà gây tội lỗi gì đây?
Người giữ ruộng chợt nghe tiếng kêu của chim chúa và âm thanh của cả đàn chim kia bay qua không gian. “Cái gì đó?” Gã nghĩ thầm. Gã đứng dậy ra khỏi lều và đi về phía cái bẫy, gã thấy chim chúa ở đó. “Ðúng là con chim mà ta muốn đặt bẫy đã bị bắt.” Gã kêu lên mừng rỡ vô cùng, gã lấy con chim ra khỏi bẫy, buộc đôi chân vào nhau và đi về phía làng Sālindiya, gã giao chim cho vị Bà-la-môn. Vị này với tình cảm đậm đà dành cho Bồ-tát, ôm ngài trong đôi tay, đặt ngài trên đùi mình và nói chuyện với ngài qua hai vần kệ sau:
5. Bụng chim lớn vượt các chim kia,
Trước hết chim ăn bữa thỏa thuê,
Sau đó ngậm thêm đầy mỏ nữa,
Trước khi giương cánh rộng bay về.
6. Chim có một kho phải đổ vào,
Và chim ghét lão đắng cay sao?
Lão đòi chim phải trình cho đúng,
Chim để kho kia ở chốn nào?
Nghe lời này, chim anh vũ chúa đáp lời, ngâm vần kệ thứ bảy bằng giọng người ngọt ngào như mật:
7. Ta chẳng ghét ngài, Kosiya,
Ta không hề có vựa kho nhà,
Khi vào rừng ở, ta hoàn nợ,
Và cũng cho vay mượn nữa mà,
Nơi đó ta dồn kho báu mãi,
Ðây là câu giải đáp phần ta.
Tiếp theo, vị Bà-la-môn hỏi chim chúa:
8. Món nào chim lại muốn cho vay?
Gì đó là công phải trả đây?
Cho biết kho nào đang tích trữ?
Rồi ta sẽ thả tự do bay.
Chim anh vũ chúa vừa đáp lời vị Bà-la-môn yêu cầu vừa giải thích ý định của mình qua bốn vần kệ:
9. Lũ chim non nớt ở nhà ta,
Ðôi cánh còn chưa mọc đủ ra,
Chúng sẽ nuôi ta mai mốt nọ,
Nay ta cho chúng mượn vay mà.
10. Mẹ cha già yếu cả song thân,
Hai vị xa dần hạn tuổi xuân,
Với lúa ta mang trong chiếc mỏ,
Ðem về dâng trả các ân nhân.
11. Còn lắm chim đang sống lẻ đơn,
Bầy chim yếu đuối lại nhiều hơn,
Ta cho bọn chúng vì từ mẫn,
Ðây chỗ Hiền nhân gọi trữ tồn.
12. Ðây là phần nợ muốn cho vay,
Ðấy lại là công phải trả đầy,
Nơi nọ là kho đang tích trữ,
Giờ ta phân giải hết lời này.
Vị Bà-la-môn rất hoan hỷ khi nghe bài thuyết giáo hợp đạo lý này của Bồ-tát liền ngâm hai vần kệ:
13. Ðạo lý cuộc đời tối thượng thay!
Làm bao công đức chính chim này,
Từ mồm nhiều kẻ trên trần thế,
Chẳng có hề nghe luật lệ vầy.
14. Ăn cho vừa ý thật no nê,
Và mọi chim thân cũng thỏa thuê,
Anh vũ, rồi ta còn gặp lại,
Ta yêu hình bóng bạn quay về.
Cùng với những lời này, ông nhìn Bồ-tát với lòng trìu mến như thể nhìn đứa con yêu quý nhất của mình, rồi thả dây trói khỏi chân chim, ông thoa lên đôi chân ấy một loại dầu quý đã lọc kỹ cả trăm lần và đặt chim lên một bảo tòa rất sang trọng, đãi chim ăn món bắp ngọt trên một cái đĩa vàng và uống nước đường. Sau đó, chim anh vũ chúa vừa khuyên nhủ vị Bà-la-môn tinh cần vừa ngâm kệ này:
15. Trong nhà ngài đấy, Kosiya,
Ta uống ăn, tình bạn thiết tha,
Xin hãy cúng dường cho những vị,
Trong đời gánh nặng đã quăng xa,
Và xin phụng dưỡng song thân đủ,
Khi các ngài kia đã xế tà.
Lúc ấy, vị Bà-la-môn vô cùng hân hoan trong lòng, thốt lời cảm hứng của mình qua vần kệ này:
16. Thần nữ Cát Tường hẳn đến đây,
Khi ta nhìn thấy chúa chim này,
Ta nguyền thực hiện nhiều công đức,
Chẳng có bao giờ muốn nghỉ tay,
Vì giọng chim thần nay lảnh lót,
Ta vừa nghe thật tuyệt vời thay!
Kế đó, Bồ-tát không chịu nhận cả ngàn mẫu ruộng do vị Bà-la-môn tặng ngài mà chỉ nhận tám mẫu thôi. Vị ấy cho chôn các trụ đá làm ranh giới để dành riêng điền sản cho ngài rồi lại dâng ngài vòng hoa thơm... rất cung kính và nói:
– Xin Chúa công thượng lộ bình an và mau về khuyên dỗ song thân đang ràn rụa nước mắt than khóc!
Xong ông tiễn ngài bay đi. Ngài rất đẹp ý, ngậm một cọng lúa đem về cho cha mẹ, rồi vừa thả cọng lúa trước song thân vừa bảo:
– Nào dậy đi thôi, cha mẹ thân yêu của con!
Hai vị nghe lời ngài liền vùng dậy, mắt nhòa lệ thảm. Sau đó, cả đàn anh vũ kia lục tục kéo đến hỏi thăm:
– Tâu Chúa thượng, ngài làm sao thoát thân được?
Ngài kể cho chúng nghe toàn câu chuyện từ đầu đến cuối. Còn gia chủ Kosiya nghe lời khuyên nhủ của chim anh vũ chúa, đem phân phát nhiều của cải, bố thí cúng dường các vị chân nhân, các ẩn sĩ khổ hạnh cùng các Bà-la-môn.
Vần kệ cuối cùng do bậc Ðạo sư ngâm để giải thích việc này:
17. Kosiya này với đại hân hoan,
Thực phẩm làm phong phú ngập tràn,
Ðãi uống ăn La-môn, Thánh giả,
Bản thân vị ấy thật hiền lương.
***
Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:
– Như vậy, này các Tỷ-kheo, phụng dưỡng mẹ cha mình là một mỹ tục cổ truyền của các bậc Trí nhân và thiện nhân.
Sau đó, Ngài thuyết giảng các sự thật và nhận diện tiền thân. Bấy giờ, vào lúc kết thúc các sự thật, vị Tỷ-kheo đó đã được an trú vào Sơ quả (Dự lưu).
– Vào thời ấy, các đệ tử Phật là đàn anh vũ; phụ hoàng, mẫu hậu ngày nay là cha mẹ chim chúa; Channa (Xa-nặc) là người giữ ruộng; Ānanda là vị Bà-la-môn và Ta chính là chim anh vũ chúa kia.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.