Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§482. CHUYỆN LỘC VƯƠNG RURU (Rurujātaka)[9] (J. IV. 255)
Ai mang tin báo trẫm về nai...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa). Có người bảo vị ấy:
– Bậc Ðạo sư đem lại thật nhiều lợi ích cho hiền hữu, này Hiền hữu Ðề-bà-đạt-đa. Hiền hữu đã thọ Ðại giới từ đức Như Lai, Hiền hữu đã học với Ngài Tam tạng Kinh điển, Hiền hữu đã nhận được nhiều lợi dưỡng và danh vọng.
Khi những điều như vậy được nói, người ta thường nghe thuật lại một cách đáng tin cậy là vị ấy sẽ trả lời:
– Không đâu Hiền hữu, bậc Ðạo sư chẳng làm gì lợi lạc cho ta dù chỉ bằng một cọng cỏ. Ta đã thọ Ðại giới của chính ta, ta tự học Tam tạng Kinh điển, ta nhận được lợi dưỡng và danh vọng do từ bản thân ta chứ không nhờ ai cả.
Trong pháp đường, Tăng chúng nói về việc này:
– Ðề-bà-đạt-đa thật là vong ân bội nghĩa, này Hiền hữu, và lại quên cả thân tình.
Bậc Ðạo sư bước vào và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi đó. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, nay không phải là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa vong ân bội nghĩa mà trước kia kẻ ấy cũng đã vô ơn. Thuở xưa, kẻ ấy đã được Ta cứu mạng nhưng kẻ ấy không biết công đức to lớn của Ta.
Nói vậy xong, Ngài kể lại một câu chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, có một vị đại phú thương có tài sản tám trăm triệu chỉ sinh được một con trai đặt tên là Mahādhanaka (Ðại Phú Ông). Nhưng ông không dạy cho con việc gì cả, ông bảo:
– Con trai ta sẽ thấy việc học làm mệt mỏi tấm thân mà thôi.
Ngoài việc múa ca, ăn uống, tiệc tùng, cậu ta chẳng biết việc gì cả. Khi cậu khôn lớn, cha mẹ cưới cho cậu một cô gái xứng đôi với cậu, rồi cả hai vị qua đời. Sau khi song thân mất đi, cậu bị nhóm người chơi bời phóng đãng, rượu chè cờ bạc vây quanh nên đã tiêu hết tài sản một cách hoang phí. Lúc đó, cậu phải vay tiền rồi không trả nổi, bị chủ nợ thúc đòi. Cuối cùng, cậu nghĩ: “Ðời ta còn nghĩa lý gì với ta nữa? Ta đang bị biến thành một con người khác rồi, thà chết sướng hơn.” Sau đó, cậu bảo đám chủ nợ:
– Hãy đem các giấy nợ đến đây, ta có cả một gia bảo chôn ở bờ sông Hằng, các ông sẽ được phần đó!
Họ cùng đi với cậu. Cậu làm như thể chỉ chỗ đây đó là nơi chôn gia sản [lúc đó cậu có ý định nhảy xuống sông trầm mình] và cuối cùng cậu ta nhảy xuống sông Hằng. Trong lúc nước xoáy cuốn cậu đi ra, cậu kêu to lên đầy kinh hoảng.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát sinh làm một con nai chúa và sau khi rời đàn, hiện đang trú ẩn tại một khúc sông, chỉ riêng mình nai trong đám cây sāla chen lẫn cây xoài trổ hoa rất đẹp. Lớp da trên mình nai có màu vàng óng ả láng mượt, bàn chân trước và bàn chân sau đỏ như thể nhuộm son, cái đuôi giống như cái đuôi bò rừng, cặp sừng như hình xoắn ốc bằng bạc, đôi mắt nai tựa hồ đôi hạt minh châu lóng lánh, khi nai quay mõm về hướng nào thì trông chẳng khác quả cầu bằng vải đỏ. Vào khoảng nửa đêm, nai nghe tiếng kêu thê thảm ấy liền nghĩ thầm: “Ta nghe tiếng người kêu. Trong lúc ta đang sống đây, người ấy không phải chết! Ta sẽ cứu mạng người ấy.”
Rời khỏi chỗ ẩn nấp trong bụi cây, nai bước xuống bờ sông và gọi to bằng giọng nói an ủi:
– Này người kia, đừng sợ, ta sẽ cứu anh sống!
Rồi nai rẽ dòng nước mang cậu lên bờ, đến tận nơi nai trú ẩn. Suốt hai ba ngày liền, nai săn sóc và cho cậu ăn trái cây rừng. Sau đó, nai bảo cậu:
– Này người kia, ta sẽ mang anh ra khỏi rừng và đặt anh trên đường cái đến Ba-la-nại, anh sẽ trở về bình an. Xong ta yêu cầu anh đừng bị lòng tham tiền bạc lôi kéo mà báo cho vua hay một người quyền thế nào đó biết là trong chỗ kia có một con nai vàng óng cần phải bắt đấy.
Người kia hứa giữ lời và Bồ-tát sau khi được hứa rồi liền để cậu ta trên lưng và đưa ra đường cái, hướng về thành Ba-la-nại rồi trở về đường cũ.
Vào ngày cậu ta đi về thành Ba-la-nại, hoàng hậu mệnh danh Khemā (Thái Hòa) nằm mộng về sáng thấy một con nai màu hoàng kim thuyết pháp cho bà nên bà suy nghĩ: “Nếu không có một nai thần như thế này thì chắc hẳn ta đã không nằm mộng thấy ngài. Hẳn nhiên phải có một vị như vậy nên ta muốn thông báo việc này với đức vua.” Sau đó, bà đến yết kiến vua và thưa:
– Tâu Ðại vương, thần thiếp đang mong mỏi được nghe bài thuyết pháp của một con nai hoàng kim, làm được việc ấy thiếp mới sống, nếu không thiếp chẳng thiết sống nữa.
Vua an ủi bà và bảo:
– Nếu có một con vật như thế sống trong cõi trần gian này thì Ái khanh sẽ được toại nguyện.
Rồi vua triệu các Bà-la-môn vào và hỏi:
– Có loài vật nào như loài nai hoàng kim chăng?
– Tâu Đại vương, có.
Vua liền đặt một túi tiền mười ngàn đồng tiền vàng đựng bên trong một cái hộp bằng vàng lên lưng một con voi đã được trang điểm thật lộng lẫy: “Bất kỳ ai được tin về một con nai hoàng kim thì vua sẽ chấp thuận trao cho người đó túi tiền mười ngàn đồng tiền vàng này cùng chiếc hộp bằng vàng và cả con voi ấy nữa hoặc một con khác tốt đẹp hơn.” Vua ra lệnh khắc một vần kệ trên một phiến vàng, giao cho một viên quan trong triều và bảo vị ấy nhân danh vua hát vần kệ ấy lên giữa dân chúng toàn thành. Sau đó, vua ngâm vần kệ đầu trong chuyện tiền thân này:
117. Ai mang tin báo trẫm về nai,
Tối thượng lộc vương của cả loài,
Ai được trẫm ban phần thưởng quý,
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi?
Viên triều thần mang phiến vàng ấy đi công bố khắp kinh thành. Vừa lúc ấy, con trai của vị phú thương đi vào Ba-la-nại, khi nghe lời công bố ấy, cậu đến gần viên quan và nói:
– Tiểu sinh có thể đưa tin về một con nai như vậy, các ngài hãy dẫn tiểu sinh vào yết kiến đức vua!
Viên quan liền xuống voi, dẫn cậu vào yết kiến vua và tâu:
– Tâu Đại vương, người này có thể đưa tin tức trình Đại vương về con nai kia.
Vua phán:
– Có đúng như vậy chăng, người kia?
Cậu đáp:
– Tâu Ðại vương, quả đúng như vậy, xin Ðại vương cho tiểu thần vinh dự đó.
Và cậu ngâm vần kệ thứ hai:
118. Thần tâu Hoàng thượng biết tin nai,
Tối thượng lộc vương của cả loài,
Xin Ðại vương ban phần thưởng quý,
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi!
Vua rất hoan hỷ khi nghe những lời này của tên phản bạn. Vua phán:
– Này mau lên! Phải tìm con nai này ở đâu thế?
Gã đáp:
– Tâu Đại vương, ở chỗ như vầy.
Và gã chỉ rõ đường đi. Cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vua ra lệnh tên phản bội dẫn ngài đến nơi ấy, rồi gã bảo:
– Xin ra lệnh cho đoàn quân sĩ dừng lại.
Khi quân sĩ đã được lệnh dừng, gã chỉ tay nói tiếp:
– Nơi có con nai vàng ánh ở chốn đằng xa xa kia kìa.
Và gã ngâm vần kệ thứ ba:
119. Bụi cây xoài ở phía đàng xa,
Cùng đám sāla nở rộ hoa,
Ðất tựa yên chi màu đỏ thắm,
Nai này có thể được tìm ra.
Khi vua nghe những lời này, ngài bảo các cận thần:
– Ðừng để nai chạy thoát mà phải lập tức bủa vây quanh bụi cây này, còn binh sĩ cầm binh khí trong tay.
Họ làm theo lệnh ấy và đồng thanh la lớn. Vua cùng một số người khác đứng riêng ra, song gã đó cũng không đứng xa mấy. Bồ-tát nghe tiếng kêu ấy, nghĩ thầm: “Ðây là tiếng thét của một đoàn người đông đảo, vậy ta phải đề phòng họ mới được.” Ngài đứng lên và khi nhìn cả một đoàn người, ngài nhận thấy nơi vua đứng, ngài nghĩ thầm: “Nơi nào vua đứng, ta sẽ được bình an, vậy ta phải đến đó.” Rồi ngài chạy về phía vua. Khi vua thấy ngài chạy đến liền bảo:
– Một con vật mạnh như voi có thể quật mọi thứ trên đường đi của nó. Ta muốn giương cung lên dọa con nai này. Nếu nó chạy, ta sẽ bắn cho nó yếu đi rồi ta mới bắt nó được.
Sau đó, vua giương cung lên ngay trước mặt Bồ-tát.
***
Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ:
120. Nai tiến lên, cung đã được giương,
Mũi tên nằm ở sợi dây trương,
Ðằng xa, vì vậy nai kêu lớn,
Ngay lúc nai nhìn thấy Ðại vương.
121. “Ðại vương, chúa tể của vương xa,
Xin đứng yên và chớ bắn ta,
Ai đã mang tin Hoàng thượng biết,
Nơi này nai sẽ được tìm ra?”
Vua say mê giọng ngọt như mật của ngài liền thả cung đứng yên chiêm ngưỡng ngài. Lúc ấy, Bồ-tát bước lên chỗ vua, nói chuyện vui vẻ với vua và đứng một bên. Cả đoàn tùy tùng cũng hạ binh khí xuống, bước lên vây quanh vua. Vào lúc ấy, Bồ-tát hỏi vua với giọng êm ái như tiếng chuông vàng rung nhè nhẹ:
– Ai đem tin đến cho ngài rằng nơi đây sẽ tìm được nai vàng?
Vừa lúc ấy, con người gian ác kia bước lại gần và đứng nghe lỏm. Vua chỉ gã và nói:
– Ðó là người báo tin cho trẫm.
Rồi vua ngâm vần kệ thứ sáu:
122. Kẻ ác kia, bằng hữu của ta,
Con người đang đứng ở đằng xa,
Mang tin nó đã cho ta biết,
Rằng ở đây nai được thấy mà.
Nghe vậy, Bồ-tát trách mắng người bạn phản bội kia và ngâm vần kệ thứ bảy nói với vua:
123. Nhiều người ở cõi thế gian này,
Tục ngữ thường hay nói đúng thay,
“Thà vớt gỗ trôi sông còn tốt,
Hơn là cứu một kẻ như mày!”
Khi vua nghe lời kệ này liền ngâm vần kệ khác:
124. Muốn trách người có thể hỏi nai?
Là chim, là thú hoặc là ai?
Lòng ta đầy nỗi lo vô hạn,
Khi tiếng nai nghe giống tiếng người!
Ðến đây, Bồ-tát đáp lại:
– Tâu Ðại vương, ta không trách một thú vật hay chim chóc nào cả mà ta trách một người.
Ðể giải thích việc này, ngài ngâm vần kệ thứ chín:
125. Ta cứu gã kia đã một lần,
Khi gần như gã phải chìm dần,
Trên dòng chảy xiết dìm thân gã,
Vì đó nay đành phải khổ thân,
Ngài cứ đi cùng phường độc ác,
Ngày sau chắc chắn sẽ ăn năn.
Khi vua nghe vậy liền nổi giận lôi đình với gã kia. Vua phán:
– Sao? Ngươi không nhìn nhận công đức của ngài sau một việc cứu vớt đầy nhân từ như vậy ư? Ta muốn bắn chết gã kia ngay.
Vua liền ngâm vần kệ thứ mười:
126. Ta sẽ đâm tên bốn cánh này,
Xuyên vào tim nó, bỏ thân ngay,
Ác nhân này đã đầy tâm phản,
Chẳng đội ơn sâu cứu giúp vầy!
Lúc ấy, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta không muốn nó chết vì ta” nên ngài ngâm vần kệ thứ mười một:
127. Người ngu đáng thẹn, tấu Minh quân,
Song việc giết người, bậc thiện nhân,
Chẳng tán thành, xin tha kẻ khốn,
Và ban cho gã thưởng toàn phần,
Những gì ngài hứa, còn ta sẽ,
Phục vụ Quân vương những lúc cần.
Vua hoan hỷ khi nghe lời này nên ngâm vần kệ tiếp để tán thán ngài:
128. Nai này quả thật có lòng nhân,
Không trả hận sân với hận sân,
Tống gã hèn ngay! Ta thưởng nó,
Làm tròn lời hứa đã từng ban,
Còn nai đi đến nơi tùy ý,
Xin chúc ngài luôn được vạn an!
Nghe lời này, Bồ-tát đáp:
– Tâu Ðại vương, người ta có thể miệng nói một đường mà làm một nẻo.
Và ngài ngâm hai vần kệ để giải thích điều đó:
129. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
Thường cũng dễ dàng được cảm thông,
Còn tiếng người đời tuy rõ thế,
Vô cùng khó hiểu, tấu Quân vương!
130. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
Quyến thuộc là đây, bạn chí tình.”
Tuy thế tình thân thường biến mất,
Oán thù, căm hận lại dần sinh.
Khi vua nghe lời này, ngài đáp:
– Này lộc vương, xin đừng nghĩ rằng ta thuộc loại người như vậy. Vì ta quyết sẽ không chối từ đặc ân mà ta đã ban cho ngài, dù ta có mất cả quốc độ vì chuyện đó. Hãy tin tưởng vào ta!
Rồi vua cho ngài chọn điều ước. Bồ-tát nhận đặc ân này và ước mong rằng tất cả các loài vật từ chính ngài trở đi đều được bình an thoát khỏi mọi tai họa. Vua thuận cho ngài điều ước ấy rồi đem ngài về thành Ba-la-nại, và sau khi trang hoàng cả kinh thành lộng lẫy, lại tô điểm luôn cả Bồ-tát nữa. Vua mời ngài thuyết pháp cho bà chánh hậu, sau đó vua và triều đình nghe bằng thứ tiếng của loài người ngọt ngào như mật. Ngài khuyến giáo vua hành trì thập vương pháp (mười đức tính của vị minh quân) và khích lệ hội chúng đông đảo ấy xong liền trở về chốn núi rừng nơi ngài sống chung với bầy nai.
Vua ra lệnh đánh trống khắp kinh thành cùng lời loan báo:
– Hoàng thượng bảo vệ mọi loài thú vật!
Từ đó về sau, không ai dám giơ tay giết hại thú vật hay chim muông cả. Nhưng nhiều đàn nai phá hoại mùa màng của người và không ai đủ sức xua đuổi chúng đi. Một đám đông tụ tập trước sân chầu, kêu than với vua.
***
Ðể làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:
131. Dân thành thị theo với tiện dân,
Ðều đi thẳng đến tấu vương quân,
“Ðàn nai ăn hết mùa màng cả,
Chúa thượng, việc này phải cản ngăn.”
Nghe vậy, vua ngâm đôi vần kệ:
132. Dân chúng dù mong muốn hoặc không,
Ví dù đất nước trẫm tiêu vong,
Trẫm không thể hại đàn nai được,
Trẫm hứa cho nai sống vẹn toàn.
133. Thần dân có thể bỏ rơi ta,
Hủy bỏ vương quyền của thế gia,
Lời ước ta đà ban lộc chúa,
Ta không hề chối bỏ đâu mà.
Dân chúng nghe lời vua phán bảo, thấy mình không thể nói gì được nữa, đành ra về. Lời vua phán lan ra khắp nơi. Bồ-tát nghe được tin ấy liền tập hợp cả đàn nai lại và ra lệnh cho chúng:
– Từ nay về sau, các con không được phá hoại mùa màng của loài người nữa.
Ngài đã gởi thông báo cho dân chúng hay rằng mỗi người phải dựng một tấm bảng hiệu lên vùng đất của mình. Dân chúng làm theo và nhờ dấu hiệu ấy cho đến nay, loài nai không phá hoại mùa màng nữa.
***
Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-bà-đạt-đa vong ân bội nghĩa.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là con trai nhà phú thương, Ānanda (A-nan) là vua và Ta chính là nai chúa.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.