Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§478. CHUYỆN SỨ GIẢ (Dūtajātaka)[5] (J. IV. 224)

Trầm tư bên bến nước sông Hằng...

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc tán thán trí tuệ của Ngài.

Trong pháp đường, Tăng chúng đang bàn luận:

– Này các Hiền hữu Tỷ-kheo, tài trí của đấng Thập Lực thật dồi dào, phương tiện thiện xảo biết bao! Ngài đã chỉ cho Vương tử Nanda (em trai của Ngài) thấy các thiên nữ xong, khiến vị ấy đắc Thánh quả. Ngài lại trao tấm vải cho Cullapanthaka, vị ấy chứng quả A-la-hán và bốn vô ngại giải. Ngài chỉ đóa hoa sen cho người thợ rèn nọ khiến người ấy đạt Thánh quả. Quả thật Ngài đang hóa độ chúng sanh với muôn vàn phương tiện khác nhau!

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang ngồi bàn luận chuyện gì. Các vị trình với Ngài, Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Như Lai có đủ phương tiện thiện xảo và tài trí để biết rõ việc gì sẽ đem lại kết quả như ý mà ngày xưa Như Lai cũng đã đầy đủ tài trí.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, cả nước đó không có vàng vì vua áp bức toàn dân và lấy hết kho vàng. Vào thời ấy, Bồ-tát sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một làng nọ trong xứ Kāsi. Khi ngài đến tuổi khôn lớn, ngài đến Takkasilā và nghĩ thầm:

– Ta sẽ kiếm tiền để trả học phí cho sư phụ ta sau bằng phương pháp xin của bố thí một cách kín đáo.

Ngài đi đến thọ giáo và khi đã hoàn thành việc học tập, ngài nói:

– Thưa sư phụ, con sẽ dùng hết năng lực tinh cần của con để đem về dâng sư phụ số tiền xứng đáng với việc sư phụ dạy bảo.

Thế là xin phép từ giã thầy dạy, ngài ra đi tất cả vùng đó để cầu bố thí. Sau khi ngài đã kiếm được vài lạng vàng theo đúng cách chân chánh và ngay thẳng, rồi trên đường đi đã dùng thuyền vượt qua sông Hằng, ngài ra về định trao tận tay thầy mình. Khi con thuyền tròng trành trên mặt nước, số vàng ấy rơi mất. Ngài suy nghĩ: “Xứ này thật khó kiếm vàng, nếu ta lại đi lần nữa để kiếm tiền trả thầy ta thì sẽ chậm trễ lắm. Vậy nếu ta cứ ngồi tuyệt thực bên bờ sông Hằng thì sao? Dần dần cũng có lúc đức vua biết được việc ta ngồi đây và vua sẽ phái một vài cận thần đến, nhưng ta sẽ chẳng nói gì với họ. Sau đó, chính đức vua sẽ đến và nhờ đó ta sẽ kiếm được tiền học phí trả thầy ta.”

Vì vậy, ngài đắp thượng y lên mình, đặt sợi dây tế đàn ra ngoài và ngồi bên bờ sông Hằng như thể một pho tượng vàng trên vùng cát bạc. Ðám đông đi ngang qua thấy ngài ngồi đó không ăn thứ gì cả liền hỏi tại sao ngài ngồi như vậy, nhưng ngài không nói lời nào với dân chúng. Hôm sau, dân làng kế cận hay tin ngài ngồi đó cũng đến hỏi han nhưng ngài cũng không nói gì. Dân chúng thấy ngài kiệt sức như vậy thì vừa bỏ đi vừa thương xót than vãn.

Ngày thứ ba, dân từ kinh thành kéo đến, ngày thứ tư là các bậc quyền cao chức trọng trong kinh thành, ngày thứ năm là các triều thần quanh vua, ngày thứ sáu vua sai các đại thần đến nhưng ngài chẳng hề nói với ai điều gì. Ngày thứ bảy, vua lo ngại đến gặp ngài và xin ngài giải thích qua vần kệ đầu:

54. Trầm tư bên bến nước sông Hằng,

Và tại sao chàng chẳng nói năng,

Ðể trả lời ta truyền nhắn hỏi,

Hay chàng giấu chuyện khổ đau chăng?

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Chúa thượng, nỗi sầu của thần chỉ được thổ lộ cho người có thể vứt bỏ nó đi chứ không nói với ai khác được.

Rồi ngài ngâm bảy vần kệ:

55. Hỡi Ðại vương nuôi xứ Kāsi!

Số ngài ví thử gặp sầu bi,

Nỗi sầu chớ lộ cho người khác,

Nếu kẻ này không có ích gì.

56. Song nếu ai san sẻ một phần,

Nỗi sầu, nhờ thế lực quyền năng,

Thì con người ấy đang sầu muộn,

Nói rõ người kia mọi ước mong.

57. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,

Cũng rất dễ dàng được cảm thông,

Tiếng nói người đời tuy rõ thế,

Vô cùng khó hiểu, hỡi Quân vương!

58. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,

Quyến thuộc bà con, bạn chí tình.”

Song mối tình thân thường biến mất,

Oán thù, căm hận lại dần sinh.

59. Người không được hỏi gặng nhiều lần,

Nói chẳng đúng thời nỗi khổ tâm,

Chắc chắn làm phiền lòng bạn hữu,

Mong mình an ổn, phải than van.

60. Tìm kiếm cơ may để nói năng,

Biết người Hiền trí lại đồng lòng,

Bạn hiền tỏ nỗi ưu cùng bạn,

Ý nghĩa nằm sau tiếng dịu dàng.

61. Song nếu Trí nhân thấy rõ ràng,

Không gì giải được nỗi gian truân,

Ðiều gì đem nói cho người biết,

Cũng chẳng đạt thành quả ước mong,

Bậc Trí một mình đành nín lặng,

E dè nhẫn nhục đến sau cùng.

Bậc Ðại sĩ đã thuyết pháp như vậy qua bảy vần kệ trên để giáo hóa vua rồi ngâm thêm bốn vần nữa để kể chuyện ngài đi kiếm tiền trả cho thầy dạy:

62. Ðại vương! Thần đã phải lang thang,

Nhiều nước, kinh thành, mỗi quốc vương,

Thị trấn, thôn làng, cầu bố thí,

Bởi vì học phí quyết lòng mang.

63. Ðến trước thềm ai, mọi chủ nhà,

Triều thần, đạo sĩ hoặc thương gia,

Cầu xin một ít vàng, thần được,

Chừng một hay hai lạng ấy mà,

Chúa thượng, số vàng nay đã mất,

Nên thần buồn bã thật sâu xa.

64. Các sứ giả không thế lực gì,

Làm thần thoát khỏi nỗi sầu bi,

Thần đà cân nhắc hoài cho kỹ,

Chúa thượng, thần không giải thích chi.

65. Song ngài uy lực đủ, Anh quân!

Giải thoát cho thần nỗi khổ thân,

Vì xét kỹ ngài nhiều đức độ,

Thần cho ngài biết thật tinh tường.

Khi vua nghe lời cảm khái ấy liền đáp:

– Này chàng Bà-la-môn, thôi đừng phiền muộn nữa. Trẫm sẽ tặng học phí cho chàng đem trả sư phụ.

Rồi vua hoàn lại gấp đôi số vàng cũ.

***

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ cuối cùng:

66. Ðại vương nuôi dưỡng cả giang san,

Hoàn lại người kia một số vàng,

[Tròn vẹn với lòng tin tưởng nhất]

Trước chàng đã có, gấp đôi lần.

Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ phương tiện thiện xảo, xưa kia Như Lai cũng như vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy Ānanda (A-nan) là vua, Sāriputta (Xá-lợi-phất) là vị giáo sư và Ta là chàng thanh niên kia.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.