Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§477. CHUYỆN TIỂU ĐẠO SĨ NĀRADA (Cullanāradajātaka)[4] (J. IV. 219)
Không có củi nào được bổ ra...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các trò quyến rũ của một cô gái thô tục.
Chuyện kể rằng có một cô gái chừng mười lăm, mười sáu tuổi, con của một người dân ở thành Xá-vệ, là một cô gái có thể đem vận may đến cho đàn ông, song chẳng có nam nhân nào chọn nàng cả. Vì vậy, mẹ nàng nghĩ thầm: “Con gái ta đã đến tuổi trưởng thành, song chẳng ai chọn nó cả. Ta muốn dùng nó như miếng mồi câu cá, khiến cho một vị xuất gia tu hành trong dòng họ Thích-ca phải hoàn tục và nó sống nương nhờ vị ấy.”
Lúc bấy giờ, có một thiện gia nam tử ở Xá-vệ đã quyết tâm tu hành và gia nhập Tăng chúng. Nhưng từ khi chàng đã thọ Ðại giới xong, chàng lại mất cả ước vọng tu tập và cứ sống chuyên lo tô điểm bản thân.
Người nữ cư sĩ này thường hay dọn sẵn cháo gạo trong nhà và nhiều thức ăn loại cứng, loại mềm rồi đứng ở cửa trong khi Tăng chúng đi ngang qua đường phố và cố tình xem ai là người có thể bị lòng thèm ăn của ngon vật lạ lôi cuốn. Tuần tự trên đường là những vị hành trì Tam tạng Kinh, Luật, Luận, song bà không tìm được ai có thể mắc vào mồi của bà cả. Giữa các vị mang bình bát, đắp y kia là những vị Pháp sư thuyết giáo với giọng ngọt ngào như mật, họ nhận đồ khất thực nhanh gọn như mưa dông chợt đến chợt đi.
Song cuối cùng, bà chợt thấy một nam nhân tiến tới, khóe mắt thoa dầu thơm, tóc buông xõa, mang chiếc y trong bằng thứ lụa mượt mà, chiếc y ngoài được giặt giũ sạch sẽ, bình bát có màu sắc đẹp như loại bảo châu, chiếc dù thật vừa ý; một con người buông thả các căn theo sở thích, toàn thân một màu đồng vàng bóng lộn. “Ðây chính là người mà ta có thể bắt lấy”, bà nghĩ thầm và đảnh lễ vị kia, bà đến cầm lấy bình bát và mời ông vào nhà.
Bà dọn chỗ ngồi cho ông, đưa cháo gạo và các thức ăn khác. Rồi sau bữa ăn, bà yêu cầu ông ghé nhà bà làm nơi nghỉ chân lui tới trong tương lai. Vì thế, ông thường viếng thăm nhà đó. Về sau, dần dần với thời gian trở nên thân thiết.
Một ngày kia, bà cư sĩ ấy nói cốt cho ông nghe:
– Trong nhà này, chúng ta sung sướng lắm, duy chỉ một điều là ta chẳng có con trai hay con rể để bảo tồn gia sản thôi.
Ông nghe được, tự hỏi không biết lý do gì bà lại nói vậy. Chẳng mấy chốc dường như việc đó đã đâm sâu vào tim ông. Bà ta bảo con gái:
– Con hãy quyến rũ người này đi, hãy tìm cách điều khiển chàng theo ý con!
Vì thế sau đó, cô gái tô điểm đầy mình đủ loại trang sức và quyến rũ vị kia, dùng đủ mánh lới xảo quyệt của nữ nhân. Ta phải hiểu rằng một cô gái thô tục đây không có nghĩa là thân hình mập mạp, nhưng dù mập hay gầy, cô ta cũng bị gọi là “cô gái thô tục” vì mãnh lực năm thứ dục tình của cô ta.
Sau đó, nam tử kia còn trẻ lại bị dục tình chi phối nên lòng thầm nghĩ: “Nay ta không thể nào tu theo giáo pháp của đức Phật được nữa.” Và ông đi đến tinh xá đặt y bát xuống, nói với các vị Giáo thọ sư của mình:
– Tâm con đang thối thất.
Rồi các Tỷ-kheo ấy dẫn ông đến bậc Ðạo sư và thưa:
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này đang thối thất.
Ngài hỏi:
– Này Tỷ-kheo, họ bảo rằng tâm ông đang thối thất. Có đúng vậy không?
– Bạch Thế Tôn, quả thật như vậy.
– Thế việc gì khiến ông như vậy?
– Bạch Thế Tôn, một cô gái thô tục.
Ngài bảo:
– Này Tỷ-kheo, ngày xưa lâu lắm rồi khi ông ở trong rừng, chính cô gái này đã cản trở đời thanh tịnh của ông và đã làm hại ông rất nhiều. Thế thì tại sao ông lại sinh thối thất vì cô ta nữa?
Rồi theo lời thỉnh cầu của Tăng chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thời kia, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn rất giàu có. Sau khi thành đạt việc học vấn, ngài về điều hành cả tài sản. Kế đó, bà vợ ngài sinh một con trai rồi qua đời. Ngài suy nghĩ: “Cũng như vợ yêu quý của ta, cái chết sẽ không chừa ta đâu, vậy gia đình có nghĩa gì với ta nữa? Ta muốn xuất gia tu hành.” Vì thế, ngài từ bỏ mọi tham dục cùng con trai đi vào vùng Tuyết Sơn, ở đó cùng sống đời ẩn sĩ, tu tập thiền định và thắng trí, cư trú trong rừng, sinh sống bằng trái cây và củ rừng.
Vào thời ấy, dân chúng ở biên địa cướp phá xứ sở. Sau khi tấn công một thị trấn và bắt các tù nhân, bọn chúng chất đầy chiến lợi phẩm rồi trở về vùng biên địa. Trong số ấy có một cô gái tuyệt đẹp, song đầy mánh khóe giả dối. Cô ta nghĩ thầm: “Những người đàn ông này khi mang chúng ta đi xa nhà sẽ biến bọn ta thành nô lệ, ta quyết tìm cách trốn thoát.” Vì vậy, cô ta bảo:
– Thưa chủ nhân, thiếp muốn nghỉ chân, vậy cho thiếp nghỉ chân một lát.
Nàng đánh lừa bọn cướp như thế rồi trốn đi.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát đã đi vào rừng tìm củ quả, để con trai ở lại am lá. Trong khi ngài đi vắng, cô gái đang lang thang trong rừng, bước đến am này vào sáng sớm, quyến rũ chàng trai bằng dục tình, phá hủy công đức của chàng và chinh phục chàng theo ý mình. Nàng bảo chàng:
– Sao chàng lại ở trong rừng này? Đôi ta cùng về một làng kia làm nhà riêng cho chúng ta ở. Tại đó đôi ta dễ dàng tận hưởng mọi lạc thú ái tình.
Chàng bằng lòng và bảo:
– Nay cha ta đang ở trong rừng kiếm trái cây, khi nào gặp lại cha ta thì chúng ta sẽ cùng nhau đi xa.
Lúc ấy, cô gái thầm nghĩ: “Cậu trai khờ dại này chẳng biết gì cả, song còn cha cậu ắt hẳn đã xuất gia tu hành lúc tuổi già. Khi ông ấy về nhà, ông ấy sẽ biết ta làm gì ở đây và đánh đập ta, lôi cổ, kéo cẳng ta ra, quẳng ta vào rừng sâu. Vậy ta muốn đi ngay trước khi ông ấy về.” Rồi chỉ rõ dấu hiệu đi đường xong, nàng liền đi ngay. Sau khi nàng vừa khuất bóng, chàng trai trở nên buồn bã, không làm phận sự hàng ngày như thường lệ mà trùm kín từ đầu tới chân, nằm dài ra trong am lá, u sầu phiền muộn.
Khi bậc Ðại sĩ đem mớ quả rừng về nhà, ngài quan sát dấu chân cô gái: “Ðây là dấu chân một nữ nhân”, ngài nghĩ thầm: “Ắt hẳn công đức của con trai ta đã mất rồi.” Sau đó, ngài bước vào am đặt mớ quả rừng xuống và ngâm vần kệ đầu hỏi con trai ngài:
40. Không có củi nào được bổ ra,
Và không kéo nước tự ao hồ,
Cũng không có lửa nào con nhóm,
Ðờ đẫn nằm, sao giống kẻ rồ?
Nghe giọng của cha, chàng trai vùng dậy đảnh lễ cha và hết sức cung kính, chàng thổ lộ rằng chàng không thể nào chịu được cuộc sống trong rừng nữa và chàng ngâm đôi vần kệ:
41. Con không thể sống ở sơn lâm,
Cuộc sống trong rừng thật khó khăn,
Con quyết điều này, Ca-diếp hỡi,
Con mong trở lại chốn phàm nhân.
42. Xin Đại sĩ ơi, hãy dạy con,
Khi con từ giã, bước lên đường,
Thế nào phong tục trong toàn quốc,
Con phải biết cho thật tỏ tường?
Bậc Ðại sĩ bảo:
– Này con, được lắm, ta sẽ dạy con mọi phong tục trong nước!
Và ngài ngâm đôi vần kệ:
43. Nếu con đã quyết chí xa rời,
Các trái cây rừng với sắn khoai,
Về sống thị thành, nghe dạy bảo,
Làm sao phong cách hợp theo đời.
44. Tránh nơi vách đá, chốn hang sâu,
Thuốc độc rời xa, dẫu loại nào,
Bước thận trọng nơi loài rắn ở,
Ðống bùn nhơ bẩn chớ sa vào.
Con trai vị ẩn sĩ không hiểu được lời khuyên cốt lõi ấy liền hỏi:
45. Vách đá, dốc cao ấy có gì,
Liên quan đến thánh đạo ta đi,
Bùn nhơ, thuốc độc cùng loài rắn,
Xin nói điều này với tiểu nhi.
Vị ấy đáp lời giải thích:
46. Có thuốc uống kia ở cõi trần,
Mà người ta gọi rượu, con thân,
Thơm tho như mật ong ngon ngọt,
Giá rẻ, đầy hương vị dịu dàng,
Cái ấy Nārada, bậc Trí,
Bảo là thuốc độc đối Hiền nhân.
47. Và bọn nữ nhân ở cõi trần,
Làm người ngu trí phải điên cuồng,
Chúng lôi đám trẻ người non dạ,
Như bão dưới đường bắt hạt bông,
Ta nói vực sâu là đấy nhé,
Ðang nằm ngay trước mặt Hiền nhân.
48. Ðược đời trao tặng đại vinh quang,
Ân sủng, lộc nhiều, tiếng tốt vang,
Này đó Nārada, bùn cấu uế,
Có cơ làm bẩn các Hiền nhân.
49. Ðế vương cùng với các quần thần,
Ðang ngự trong cung chốn thế nhân,
Này đó Nārada, đều chức trọng,
Mỗi vua là một chúa oai hùng.
50. Trước chân vua chúa, các quân vương,
Con nhớ đừng nên chọn bước đường,
Vì đó Nārada, là rắn cả,
Những người ta đã nói, con thương.
51. Ngôi nhà con đến để xin ăn,
Khi mọi người an tọa trước bàn,
Nếu thấy tốt lành trong chỗ ấy,
Thì con ăn uống thỏa thuê lòng.
52. Khi người kia dọn bữa mời con,
Thực hiện điều này lúc uống ăn,
Ðừng uống quá chừng, ăn quá độ,
Tránh xa nguồn dục lạc phàm trần.
53. Rượu chè, chuyện phiếm, bạn tà gian,
Các tiệm bán buôn của thợ vàng,
Con hãy tránh xa như những kẻ,
Ði trên đường lộ chẳng bình an.
Trong khi người cha cứ tiếp tục nói mãi, nói mãi bên tai, chàng trai dần dần hồi tỉnh và nói:
– Thưa phụ thân, con đã chán chê cõi phàm trần rồi.
Sau đó, người cha dạy cho chàng tu tập từ tâm và các thiện pháp khác. Người con nghe theo lời cha dạy bảo, chẳng bao lâu phát khởi thiền định trong tâm trí chàng. Và cả hai cha con không bao giờ gián đoạn thiền định nên được tái sanh vào cõi Phạm thiên.
***
Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại, Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, cô gái thô tục này là thiếu nữ kia, Tỷ-kheo thối thất là con trai vị ẩn sĩ và Ta chính là người cha.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.