Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§473. CHUYỆN BẠN VÀ THÙ (Mittāmittajātaka) (J. IV. 196)

Làm sao người trí phải tinh cần...

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một vị đại thần chính trực của vua xứ Kosala.

Tương truyền rằng, vị quan này rất có công với vua, và sau đó vua ban tặng ông sự vinh hiển tột bực. Các vị quan khác không thể nào chịu đựng được việc ấy nên vu cáo với vua ông đã làm những việc xúc phạm đến vua. Vua cho điều tra về vị ấy và thấy ông không có lỗi gì cả liền suy nghĩ: “Ta không thấy người này phạm lỗi gì cả, làm sao ta biết được đó là bạn hay thù?” Rồi vua lại nghĩ: “Không có ai ngoài đức Như Lai có đủ khả năng quyết đoán vấn đề này, vậy ta đi tham vấn Ngài xem sao.” Thế là sau khi dùng điểm tâm xong, vua đến viếng bậc Ðạo sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể phân biệt một người là bạn hay thù?

Lúc bấy giờ, bậc Ðạo sư đáp:

– Này Ðại vương, những người khôn ngoan ngày xưa đã suy nghĩ về vấn đề này và đã hỏi các bậc Hiền trí, rồi theo lời khuyến giáo của các vị ấy mà tìm ra chân lý, lánh xa các cừu nhân và chú tâm đến các bạn lành.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là vị cận thần khuyến giáo vua về thế sự cũng như thánh sự. Thời ấy, nhóm triều thần kia vu cáo một vị quan chính trực. Vua thấy vị ấy không có lỗi gì liền hỏi bậc Ðại sĩ:

– Này, bằng cách nào ta có thể phân biệt bạn và thù?

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ nhất:

121. Làm sao người trí phải tinh cần,

Phân biệt làm sao được thực chân,

Những việc làm nào tai mắt thấy,

Tỏ rằng kẻ ấy chính cừu nhân?

Lúc ấy, bậc Ðại sĩ ngâm năm vần kệ này để giải thích các dấu hiệu của một kẻ thù:

122. Khi ngài thăm, nó chẳng tươi cười,

Nó chẳng tỏ ra muốn đón mời,

Nó chẳng quay nhìn theo cách ấy,

Và trả lời “không có” với ngài.

123. Kẻ thù ngài, nó lại tôn vinh,

Bạn thiết của ngài, nó miệt khinh,

Nó cản người khen ngài tốt đẹp,

Những người phỉ báng, nó hoan nghênh.

124. Nó chẳng hề tâm sự mảy may,

Chuyện ngài tâm sự, nó phơi bày,

Việc ngài làm chẳng hề khen tốt,

Cũng chẳng hề khen trí tuệ ngài.

125. Khi ngài hạnh phúc nó không mừng,

Ô nhục ngài mang, nó thỏa lòng,

Nếu được món ngon không nghĩ tới,

Tên ngài trong dạ chẳng buồn thương,

Cũng không kêu lớn: Ô, này bạn,

Ta ước bạn ta cũng có phần!

126. Mười sáu điều trên cớ rõ ràng,

Cho ngài thấy được một cừu nhân,

Nếu người có trí nào nghe thấy,

Sẽ biết kẻ thù để nhận chân.

Sau khi ngâm năm vần kệ này, Bồ-tát lại nói:

127. Làm sao người trí phải tinh cần,

Phân biệt làm sao được thực chân,

Các việc làm nào tai mắt thấy,

Tỏ ra người ấy chính thân bằng?

Khi được hỏi qua lời kệ trên, vị quan liền ngâm các vần kệ còn lại:

128. Kẻ ấy nhớ người lúc vắng xa,

Mừng vui khi bạn trở về nhà,

Trong lòng hoan hỷ lên cao độ,

Chàng cất tiếng liền đón rước ta.

129. Chàng chẳng tôn vinh kẻ chống ngài,

Chỉ ưa phụng sự bạn ngài thôi,

Những ai phỉ báng, chàng ngăn cản,

Ai tán tụng ngài, lại thấy vui.

130. Chàng kể nhiều tâm sự với ngài,

Chuyện ngài tâm sự chẳng phơi bày,

Ðề cao những việc ngài làm được,

Khen ngợi tài năng bạn thật hay.

131. Chàng vui khi nghe bạn an lành,

Chàng khổ lòng khi bạn ố danh,

Nếu được gì cao lương mỹ vị,

Chàng liền nghĩ đến bạn thân mình,

Cảm thương ngài quá, chàng kêu lớn,

132. Ta ước ao phần bạn được dành,

Mười sáu điều trên ấy chứng minh,

Rõ ràng xác định bạn thân tình,

Nếu người có trí nào nghe thấy,

Có thể nói ngay bạn chí thành.

Vua hoan hỷ nghe lời thuyết giảng của bậc Ðại sĩ nên ban tặng ngài vinh quang tột đỉnh.

***

Sau khi chấm dứt pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:

– Thưa Ðại vương, như vậy vấn đề này nảy sinh từ ngàn xưa và các bậc Trí nhân dạy bảo nhờ ba mươi hai biểu hiện trên mà Ta có thể biết được bạn hay thù.

Cùng với các lời này Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Ānanda là vua và Ta chính là vị đại thần Hiền trí.

  1. Xem J. V. 413, Kuṇālajātaka (Chuyện chim chúa Kuṇāla), số §536.

  2. Xem J. I. 133, Kaṭṭhahārijātaka (Chuyện nàng lượm củi), số §7.

  3. Xem Sn. v. 574, Selasutta (Kinh Mũi tên).

  4. Xem M. II. 118, Dhammacetiyasutta (Kinh Pháp trang nghiêm), số 89.

  5. Xem J. II. 212, Kāmanītajātaka (Chuyện Bà-la-môn Kāmanīta), số §228.

  6. Xem Sn. v. 776, Kāmasutta (Kinh Về dục).

  7. Bốn thiện pháp gồm bố thí, thân ái, công bình và thiện trị.

  8. Xem S. III. 66, Anattalakkhaṇasutta (Kinh Vô ngã tướng).

  9. Một ngọn núi gần Gayā, nay là Brahmāyoni.

  10. 1 dặm (gāvuta) = 5.12 km = 1/4 do-tuần.

  11. Xem J. III. 358, Bakabrahmajātaka (Chuyện Phạm thiên Baka), số §405.

  12. 1 cubit = 45cm.

  13. Xem J. VI. 256, Vidhurapaṇḍitajātaka (Chuyện bậc Đại trí Vidhura), chuyện này trong bản Tích Lan và PTS là số 545, trong bản CST là số 546.

  14. Xem J. VI. 157, Bhūridattajātaka (Chuyện bậc Đại trí Bhūridatta), số §543.

  15. Xem J. IV. 180, Mahākaṇhajātaka (Chuyện đại hắc thiên cẩu), số §469.

  16. Xem J. V. 382, Sudhābhojanajātaka (Chuyện thực phẩm thiên giới), số §535.

  17. Xem J. VI. 330, Mahāummaggajātaka (Chuyện đường hầm vĩ đại). Chuyện này trong bản PTS là số 546. Bản Tích Lan viết Ummaggajātaka, số 546. Bản CST viết Umaṅgajātaka, số 542. Bản Thái Lan và Campuchia viết Mahosadhajātaka, số 542.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.