Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§469. CHUYỆN ÐẠI HẮC THIÊN CẨU (Mahākaṇhajātaka) (J. IV. 180)
Chó săn đen sẫm buộc năm dây...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về sự sống vì lợi lạc cho cõi đời.
Chuyện kể rằng, một ngày kia, trong lúc các Tỷ-kheo ngồi tại pháp đường, họ nói chuyện với nhau. Một vị bảo:
– Này các Hiền giả, bậc Ðạo sư bao giờ cũng thực hành từ tâm đối với số đông nên đã rời bỏ nơi an trú của Ngài và sống chỉ vì lợi lạc cho người đời. Ngài đã đạt Tối thượng trí, song Ngài tự nguyện mang y bát du hành cả mười tám do-tuần hoặc nhiều hơn nữa. Vì năm vị Trưởng lão ấy (nhóm Tôn giả Koṇḍañña) Ngài đã chuyển bánh xe pháp, vào ngày mùng năm trong nửa tháng ấy, Ngài thuyết Kinh Vô ngã tướng[8] và làm cho các vị kia đều đắc Thánh quả A-la-hán. Ngài lại đến Uruvelā (Ưu-lâu-tần-loa) và trước các đạo sĩ khổ hạnh bện tóc này (các Tôn giả Kassapa), Ngài thị hiện cho ba ngàn rưỡi vị thấy các phép thần thông cùng thuyết giáo cho các vị ấy gia nhập Tăng chúng. Và tại Gayāsīsa,[9] Ngài đã thuyết pháp về lửa khiến cho cả ngàn nhà tu khổ hạnh trong số này đắc Thánh quả A-la-hán. Với Mahākassapa (Ðại Ca-diếp), sau khi Ngài đi cả ba dặm[10] để gặp vị ấy và thuyết ba pháp thoại, Ngài đã truyền Ðại giới cho vị ấy. Rồi một mình sau buổi thọ trai, Ngài ra đi đến bốn mươi lăm do-tuần để đưa một thiện gia nam tử là Pukkusa vào Tam quả (Bất lai). Ngài lại phải đi xa cả hai ngàn do-tuần để gặp Mahākappina (Ðại Kiếp-tân-na) và làm cho vị này đắc Thánh quả. Rồi một mình Ngài vào buổi chiều đi ba mươi do-tuần để đưa con người độc ác tàn bạo là Aṅgulimāla (tướng cướp đeo vòng ngón tay) vào Thánh quả. Ngài đi ba mươi do-tuần nữa, đưa Āḷavaka (một con quỷ ăn thịt người) vào Sơ quả (Dự lưu) và cùng lúc cứu vị hoàng tử thoát nạn [khỏi bị quỷ kia ăn thịt].
Ngài an trú trên cõi trời Ba Mươi Ba suốt ba tháng và giảng toàn bộ giáo pháp cho tám trăm triệu thiên tử. Ngài lên cõi trời Phạm thiên và phá tan tà thuyết của Phạm thiên Baka,[11] làm cho mười ngàn vị Phạm thiên đắc Thánh quả. Mỗi năm, Ngài du hóa trong ba khu vực và đối với những ai có đủ căn cơ hiểu đạo, Ngài truyền dạy tam quy, ngũ giới và các quả vị khác nhau tùy mức độ khả năng. Ngài còn hành đạo vì lợi lạc của loài rắn rồng (nāga) hoặc Kim Sí điểu (Garuḷa) hoặc nhiều loài khác nữa theo nhiều phương tiện khác nhau.
Với những lời như trên, các Tỷ-kheo tán thán công đức trong đời sống của đấng Thập Lực vì lợi lạc của cõi trần gian này. Bậc Ðạo sư bước vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong lúc ngồi tại đây. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, ngày nay Ta đã đạt thắng trí viên mãn và sống vì lợi ích của chúng sanh thì cũng chẳng lạ gì, vì ngay cả xưa kia khi Ta còn tham dục, Ta cũng đã sống vì lợi lạc của chúng sanh.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, trong thời đức Phật Chánh Ðẳng Giác Kassapa (Ca-diếp) có một vị vua mệnh danh là Usīnara. Một thời gian rất lâu, sau khi đức Phật Ca-diếp tuyên thuyết tứ đế (bốn sự thật) và giải thoát cho nhiều hội chúng khỏi khổ ách, cuối cùng đã nhập vào hội chúng chư Phật an trú trong Niết-bàn (Ðại diệt độ) thì giáo pháp đã suy tàn. Tăng chúng tìm kế sinh nhai bằng hai mươi mốt cách phi pháp, họ kết giao với các Tỷ-kheo-ni và sinh ra nhiều con cái. Các Tỷ-kheo xao lãng phận sự của Tỷ-kheo. Tỷ-kheo-ni cũng xao lãng phận sự của Tỷ-kheo-ni. Nam cư sĩ và nữ cư sĩ cũng vậy. Các Bà-la-môn không còn giữ phận sự của Bà-la-môn. Phần đông dân chúng theo mười ác đạo, vì vậy khi mạng chung, họ đều phải vào các đọa xứ thật đông đảo.
Lúc ấy, Thiên chủ Đế-thích nhận thấy không có vị thiên tử nào mới xuất hiện, ngài nhìn ra cõi trần gian và thấy loài người bị đọa vào các cõi dữ như thế nào, còn giáo pháp của đức Phật đã suy tàn. Ngài tự hỏi: “Ta phải làm gì?” “Ta nghĩ ra rồi, ta sẽ đe dọa loài người làm cho đại chúng kinh hãi và khi đại chúng đã kinh hãi, ta sẽ trấn an đại chúng và thuyết pháp, ta sẽ chấn hưng giáo pháp đã suy tàn, ta sẽ làm giáo pháp tồn tại một ngàn năm nữa!”
Cùng với quyết định này, ngài biến vị thần lái xe của ngài là Mātali thành một con chó săn đen đủi khổng lồ, loài chó thuần chủng có bốn nanh lớn như quả chuối, hình thù gớm ghiếc với cái bụng bự như đàn bà sắp sinh con. Ngài cột con chó bằng sợi xích năm vòng, cột tràng hoa đỏ lên mình nó và dẫn nó đi bằng một sợi dây. Chính ngài mặc y phục màu vàng, buộc tóc ra đằng sau, quấn tràng hoa đỏ rồi cầm một cây cung khổng lồ với dây cung màu san hô, lắc lư trong tay một cây lao có đầu mũi gắn hạt kim cương, ngài giả dạng một sơn nhân đi xuống một địa điểm cách kinh thành một do-tuần.
– Trần gian đang bị tiêu diệt! Trần gian đang bị tiêu diệt!
Ngài thét lớn ba lần để đe dọa mọi người và khi vào đến kinh thành, ngài lại thét lên như vậy. Dân chúng thấy con chó săn liền kinh hoảng bỏ chạy vào thành tâu trình với vua mọi việc. Vua vội vã truyền lệnh đóng các cổng kinh thành. Song Thiên chủ Đế-thích nhảy qua bức thành cao mười tám cubit[12] cùng con chó săn, đứng bên trong kinh thành. Dân chúng hoảng hốt chạy vào nhà đóng cửa thật chặt. Con chó đen khổng lồ rượt theo người nào nó gặp phải và dọa nạt họ, cuối cùng vào đến tận cung vua. Trong cơn khủng khiếp, dân chúng đi ẩn náu khắp sân chầu, vào tận cung điện và đóng cửa lại.
Còn vua cùng các vương phi đi lên thượng lầu. Hắc thiên cẩu đưa chân đặt vào cửa sổ và rống lên thật kinh hoàng. Tiếng rống vang dội từ địa ngục lên đến tận trời xanh cao ngất, cả vũ trụ vang rền tiếng rống đó. Có ba tiếng rống lớn từng vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề là: Tiếng rống của vua dạ-xoa Puṇṇaka trong Chuyện bậc Đại trí Vidhura,[13] tiếng rống của Vua Kusa trong Chuyện Vương tử Kusa, tiếng rống của long vương Sudassana trong Chuyện bậc Đại trí Bhūridatta[14] và tiếng rống này trong Chuyện đại hắc thiên cẩu.[15]
Vua thu hết can đảm đến gần cửa sổ, kêu lớn vào Thiên chủ:
– Này thợ săn kia, sao con chó của ngươi rống lên thế?
– Vì nó đói.
Vua bảo:
– Ðược, trẫm sẽ ra lệnh đem thức ăn cho nó.
Thế là vua ra lệnh đem thức ăn ngự thiện của ngài cùng thức ăn trong cả cung điện. Con chó hình như chỉ ngoạm một miếng là hết tất cả xong lại gào thét. Vua hỏi nữa, Thiên chủ đáp:
– Con chó còn đói.
Sau đó, vua bảo đem thức ăn của voi, ngựa ra cho nó. Nó cũng ăn hết lập tức, vua lại phải lấy hết thức ăn trong kinh thành ra cho nó, con chó cứ nuốt chửng hết như vậy rồi gào thét nữa. Vua bảo:
– Ðây không phải chó, chắc chắn là con quỷ dữ. Ta muốn xem nó từ đâu đến.
Lòng kinh hãi, vua ngâm vần kệ đầu hỏi:
61. Chó săn đen sẫm buộc năm dây,
Nanh trắng nhe ra cả miệng này,
Oai vệ gây kinh hoàng dữ dội,
Nó làm gì được với người đây?
Nghe vậy, Thiên chủ Đế-thích ngâm vần kệ thứ hai:
62. Chó đen chẳng đến để săn mồi,
Song nó làm công dụng trị người,
Ðại đế Usīnara này phải biết,
Khi ta thả lỏng nó ra thôi.
Lúc ấy, vua bảo:
– Sao, thợ săn, con chó này sẽ xé xác hết mọi người hay chỉ xé những kẻ thù của ngươi thôi?
– Tâu Ðại vương, chỉ những kẻ thù của tiểu thần thôi.
– Vậy ai là kẻ thù của ngươi?
– Tâu Ðại vương, những kẻ nào thích gian tà và theo đường ác.
Vua bảo:
– Hãy tả bọn chúng cho ta nghe!
Vị Thiên chủ liền tả bọn chúng qua các vần kệ:
63. Giả làm Tăng chúng, bát trong tay,
Mình khoác chiếc y, cạo tóc này,
Lại muốn theo nghề cày ruộng đất,
Thì ta sẽ thả chó đen ngay.
64. Khi nào Ni chúng Giáo đoàn này,
Ðắp một chiếc y, cạo tóc vầy,
Lại thấy đua chen đời thế tục,
Thì ta sẽ thả chó đen đây.
65. Khi nhà tu lại muốn cho vay,
Nặng lãi, môi trên chẫu thật dài,
Cả miệng răng hôi, đầu tóc bẩn,
Thì ta sẽ thả chó đen này.
66. Giáo sĩ không kinh thánh, lễ đàn,
Lại dùng hết cả mọi tài năng,
Tế đàn vì chỉ ham tiền của,
Lúc ấy ta liền thả chó săn.
67. Nay đã già nua, nhị lão thân,
Ðến thời tàn tạ hết ngày xuân,
Nó không cấp dưỡng dù dư sức,
Chống nó, ta liền thả chó săn.
68. Kẻ nào đối với mẹ cha già,
Nay đến lúc tàn xuân đã qua,
Kêu: “Các người kia, đồ ngốc dại!”
Chống y, ta thả chó săn ra.
69. Khi đàn ông tán vợ người ta,
Vợ của thầy, hay của bạn nhà,
Em của cha mình, hay vợ cậu,
Thì ta liền thả chó đen ra.
70. Khi mộc trên vai, kiếm dưới tay,
Làm quân cường đạo, vũ trang đầy,
Chiến trường giết hại và ăn cướp,
Ta sẽ thả ra hắc cẩu này.
71. Con trai bà góa dưỡng da ngà,
Vô dụng, không tài giỏi việc nhà,
Lực lưỡng, chỉ gây trò đánh lộn,
Thì ta sẽ thả chó săn ra.
72. Khi tâm người chứa rẫy ý tà,
Những kẻ dối gian, chẳng thật thà,
Quanh quẩn vào ra trong thế giới,
Thì ta sẽ thả chó đen mà.
Như vậy, khi Thiên chủ bảo: “Những người này là kẻ thù của ta, tâu Ðại vương”, ngài làm thể như sắp thả chó xông ra xé những kẻ nào làm các hành động của cừu nhân. Song trong lúc cả đám đông đang kinh hoàng, ngài cầm lấy dây xích chó làm như thể buộc chặt nó vào chỗ đó rồi ngài trút bỏ bộ dạng thợ săn, dùng thần lực bay lên đứng trên không, sáng rực rỡ và bảo:
– Này Ðại vương, ta là Thiên chủ Đế-thích, vì thấy trần gian sắp bị hủy diệt nên ta đến đây. Quả thật bây giờ người chết đọa vào các cõi khổ đầy rẫy vì chúng làm toàn chuyện độc ác, còn thiên giới thì trống vắng. Từ nay ta sẽ biết cách trừng trị bọn gian ác, song các người phải cố gắng tinh cần.
Rồi sau khi thuyết pháp trong bốn vần kệ đáng ghi nhớ và hướng dẫn dân chúng vào các công đức thiện sự như bố thí, ngài tăng cường uy lực của giáo pháp đang suy tàn để giáo pháp được tồn tại thêm một ngàn năm nữa rồi ngài cùng thần Mātali trở lại cõi của ngài.
***
Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại này. Ngài nói thêm:
– Này các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như nay, Ta đã sống vì lợi lạc của cõi đời.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời đó, Ānanda là Mātali và Ta là Thiên chủ Đế-thích.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.