Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§463. CHUYỆN TRÍ GIẢ SUPPĀRAKA (Suppārakajātaka) (J. IV. 136)

Đám người kia mũi nhọn như dao...

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự viên mãn của trí tuệ (trí tuệ Ba-la-mật).

Một ngày nọ vào buổi tối, các Tỷ-kheo đang đợi đức Như Lai đến thuyết pháp cho Tăng chúng, và trong lúc ngồi tại pháp đường, các vị nói với nhau:

– Này Tỷ-kheo, quả thật bậc Ðạo sư có trí tuệ vĩ đại, trí tuệ quảng bác, trí tuệ mẫn tiệp, trí tuệ linh hoạt, trí tuệ tinh xảo, trí tuệ uyên thâm, trí tuệ của Ngài đáp ứng đúng nơi đúng lúc! Trí bao la như đại địa, sâu như đại dương, rộng mênh mông như bầu trời, khắp cả xứ Diêm-phù-đề không một vấn đề nào khởi lên có thể vượt qua đấng Thập Lực. Như một đợt sóng nổi lên trên đại dương không thể vượt qua bờ được, vì khi chạm vào bờ, sóng kia sẽ vỡ tan, cũng vậy không một vấn đề nào có thể vượt qua đấng Thập Lực vì khi vấn đề ấy đến chân bậc Ðạo sư thì sẽ vỡ tan.

Bằng những lời ấy, Tăng chúng tán thán trí tuệ tối thắng của đấng Thập Lực. Bậc Ðạo sư bước vào và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang nói gì trong khi ngồi đây?

Tăng chúng thưa với Ngài, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ trí tuệ. Ngày xưa, ngay khi trí tuệ chưa viên thành Chánh giác, Như Lai cũng đã sáng suốt thông minh. Mặc dù mù lòa, Như Lai cũng biết các dấu hiệu của đại dương là ở trong đại dương có chôn giấu các loại ngọc này ngọc nọ.

Sau đó, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, một vị vua mệnh danh Bharu trị vì trong quốc độ Bharu. Có một thị trấn bên hải cảng được đặt tên là Bharukaccha (đầm Bharu). Vào thời ấy, Bồ-tát sinh ra trong gia đình một thuyền trưởng ở tại đó, ngài rất khả ái với làn da màu vàng nâu. Cha mẹ đặt tên ngài là Suppāraka.

Ngài lớn lên xuất sắc khác thường, và ngay khi chỉ mới được mười sáu tuổi, ngài đã hoàn toàn tinh thông nghệ thuật hàng hải. Sau đó, khi thân phụ mất, ngài lãnh đạo đoàn thủy thủ và miệt mài với nghề hàng hải. Ngài thật thông minh sáng suốt, khi ngài lên tàu rồi thì không hề có chiếc tàu nào đến làm hại được.

Theo thời gian, ngài bị thương vì nước mặn nên đôi mắt ngài bị mất thị giác. Sau sự kiện ấy, dù ngài là thuyền trưởng của đoàn thủy thủ, ngài không còn đeo đuổi sự nghiệp thương mãi nữa mà quyết định về phục vụ vua. Ngài đến yết kiến vua với mục đích ấy và vua phong cho ngài chức Hội thẩm đánh giá các báu vật. Từ đó, ngài định giá trị voi báu, ngọc báu và châu báu.

Một hôm, một con voi được đem trình lên vua, da voi màu đá đen nên có thể được làm vương tượng. Vua liếc nhìn con voi rồi ra lệnh đem nó đi đến trình diện với bậc Trí giả. Quân hầu liền dẫn con vật đến gặp ngài. Ngài sờ tay lên khắp mình voi và bảo:

– Con voi này không xứng đáng làm vương tượng. Nó có đặc tính của một con vật bị dị tật ở phía sau. Khi voi mẹ sinh ra nó đã không đủ sức mang nó lên vai nên để nó ngồi xuống đất, vì vậy nó bị tật ở chân sau.

Họ chất vấn những người đem voi đến và những người ấy trả lời rằng bậc Trí giả đã nói đúng sự thật. Khi vua nghe nói chuyện kia, lòng rất hoan hỷ và ra lệnh ban cho bậc Trí giả tám đồng tiền vàng.

Một ngày khác, người ta đem một con ngựa dâng lên để làm vương mã. Con vật này cũng được dẫn đến bậc Trí giả. Ngài lấy tay sờ khắp mình ngựa rồi nói:

– Con vật này không thích hợp để làm vương mã cho đức vua ngự. Vào ngày nó sinh ra, ngựa mẹ chết đi nên do thiếu sữa mẹ, nó lớn lên không đầy đủ.

Lời nói này của ngài cũng đúng sự thật. Khi nghe được chuyện ấy, vua rất đẹp ý, phán bảo đem tặng ngài tám đồng tiền nữa.

Vào một ngày khác, một chiếc xe được đem đến để làm vương xa. Vua cũng đưa xe này đến ngài. Ngài lấy tay rờ khắp xe và bảo:

– Chiếc xe này được làm bằng gỗ rỗng nên không thích hợp với đức vua.

Lời nói này của ngài cũng đúng như các lời khác. Vua lại một phen hài lòng khi nghe chuyện này nên ban thêm cho ngài tám đồng tiền nữa. Một lần nữa, có người đem dâng vua một tấm thảm quý có giá trị lớn. Vua liền đưa nó đến ngài như lần trước. Ngài sờ khắp tấm thảm rồi bảo:

– Ở đây có một chỗ mà con chuột đã cắn một lỗ.

Họ xem kỹ và thấy chỗ đó liền tâu với vua. Vua đẹp ý lại bảo cho ngài tám đồng tiền nữa. Lúc bấy giờ, bậc Trí giả mới suy nghĩ: “Chỉ được có tám đồng vàng để xem những việc kỳ diệu như thế đấy. Ðây là món tiền tặng cho thợ hớt tóc, chắc hẳn vua này là cậu bé thường hớt tóc! Tại sao ta phải phụng sự một vị vua như thế chứ? Ta sẽ trở về nhà riêng của mình.” Thế là ngài trở về hải cảng Bharukaccha và sống tại đó.

Lúc ấy, có vài thương nhân chuẩn bị một chiếc thuyền và đang đi tìm một thuyền trưởng. Họ suy nghĩ: “Trí giả Suppāraka thông minh kia là một bậc Trí giả tài ba, có ngài trên tàu thì không con tàu nào đến hại nữa. Dù ngài mù lòa, Trí giả Suppāraka vẫn là người tuyệt hảo.” Vì thế, họ đi đến ngài và mời ngài làm thuyền trưởng. Ngài đáp:

– Này các hiền hữu, ta mù rồi, làm sao lái thuyền các bạn được?

Các thương nhân bảo:

– Thưa Tôn giả, quả ngài mù thật đấy, song ngài là người tài giỏi nhất.

Vì họ cứ năn nỉ ngài mãi không ngớt nên cuối cùng ngài chấp thuận.

Ngài bảo:

– Như các bạn đã nói với ta thì ta sẽ làm thuyền trưởng của các bạn.

Sau đó, ngài bước lên chiếc thuyền của họ. Họ lái thuyền ra giữa đại dương. Suốt bảy ngày liền, thuyền đi không gặp rủi ro nào, rồi một ngọn gió trái mùa nổi lên. Thuyền trôi dạt bốn tháng trên vùng đại dương hoang dã cho đến lúc vào được một nơi gọi là biển Khuramālī (bãi dao nhọn hoắt). Tại đây, loài cá có thân như người với mũi nhọn hoắt như lưỡi dao, nhào lộn dưới nước. Các thương nhân quan sát loài cá này, vừa hỏi bậc Ðại sĩ biển này tên gì vừa ngâm vần kệ đầu:

108. Ðám người kia mũi nhọn như dao,

Vừa nhảy lên cao, lại lộn nhào,

Suppāraka hãy nói cho bè bạn,

Đây gọi tên gì của đại dương?

Bậc Ðại sĩ nghe câu nói này liền ôn lại trong trí các kiến thức thủy thủ của ngài rồi đáp qua vần kệ thứ hai:

109. Này các thương nhân cảng Bharukaccha,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðây là biển cả Khuramālī đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Lúc bấy giờ, đại dương này có nhiều kim cương. Bậc Ðại sĩ suy nghĩ rằng nếu ngài bảo chúng bạn đây là biển kim cương, họ sẽ làm chìm tàu do lòng tham hốt nhiều kim cương. Vì thế, ngài không nói gì cả. Song sau khi đưa thuyền đến, ngài lấy một sợi dây thừng và thả lưới xuống như thể bắt cá, với dây này, ngài đã hốt được một mớ kim cương và giấu trong thuyền rồi ngài lựa những thứ ít giá trị quăng xuống biển.

Chiếc thuyền đi qua vùng biển này đến một biển khác tên là Aggimālī (vũng lửa cháy). Biển này tỏa ra ánh sáng như thể một ngọn lửa đang bừng cháy, như mặt trời đúng ngọ. Các thương nhân hỏi han ngài qua vần kệ:

110. Kìa đại dương như ngọn lửa hồng,

Như vầng nhật chiếu, bạn cùng trông,

Suppāraka, hãy nói cho bè bạn,

Đây gọi tên gì của đại dương?

Bậc Ðại sĩ đáp lại họ qua vần kệ tiếp theo:

111. Này các thương nhân cảng Bharukaccha,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðây là biển cả Aggimālī đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ, biển này chứa đầy vàng, cũng như trước, ngài lấy lên một mớ vàng và cất lên thuyền. Qua khỏi biển này, con thuyền đi đến một biển cả tên là Dadhimālī (vũng sữa đông) óng ánh như sữa tươi hay sữa đông. Các thương nhân lại hỏi tên của biển qua vần kệ:

112. Kìa biển trắng phau giống sữa tươi,

Trắng như nhìn vũng sữa đông rồi,

Suppāraka, hãy nói cho bè bạn,

Tên gọi là gì của biển khơi?

Bậc Ðại sĩ đáp lại chúng bạn bằng câu kệ tiếp theo:

113. Này các thương nhân cảng Bharukaccha,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðây là biển cả Dadhimālī đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Trong biển này có rất nhiều bạc. Ngài lấy bạc theo cách như trước rồi cất lên tàu. Chiếc thuyền đi qua biển này và đến một đại dương tên là Kusamālī (thảm cỏ cát tường) có hình dáng một thảm cỏ cát tường xanh óng hay một cánh đồng lúa. Các thương nhân lại hỏi tên biển qua vần kệ:

114. Kìa biển xanh như cỏ cát tường,

Tưởng như nhìn đám bắp trên đồng,

Suppāraka, hãy nói cho bè bạn,

Đây gọi tên gì của đại dương?

Ngài đáp lời qua vần kệ tiếp theo:

115. Này các thương nhân cảng Bharukaccha,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðại dương đây chính Kusamālī đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ trong biển này có rất nhiều ngọc bích quý. Cũng như trước, ngài lấy một mớ ngọc và cất trên thuyền. Qua khỏi biển này, con thuyền đi đến một biển tên gọi là Nalamālī (bãi lau sậy) có hình dáng một bãi lau sậy hay một rừng tre. Các thương nhân hỏi tên biển qua vần kệ:

116. Kìa đại dương như một khóm lau,

Khác nào ta thấy rặng tre đâu,

Suppāraka, hãy nói cho bè bạn,

Đây gọi tên gì của đại dương?

Bậc Ðại sĩ đáp lại qua vần kệ sau:

117. Này các thương nhân cảng Bharukaccha,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Biển này tên gọi Nalamālī đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ, biển này đầy san hô với màu khóm tre, ngài lại hốt một mớ đá quý này và cất lên tàu. Sau khi đi qua biển Nalamālī, các thương nhân đến một biển có tên là Vaḷabhāmukhī[18] (hố xoáy mạnh). Ở đây, nước rút đi và dâng lên một phía và như vậy nước rút đi ở mọi phía và dâng lên trên các vách đá thẳng đứng để lại một vùng như thể cái hố sâu. Một đợt sóng dâng tràn lên một phía chẳng khác nào một bức tường, tai lại nghe một tiếng gầm thét khủng khiếp tưởng chừng làm thủng màng tai hoặc vỡ cả tim ra. Khi thấy cảnh này, các thương nhân kinh hoảng và hỏi tên biển qua vần kệ:

118. Này nghe tiếng thét thật kinh hoàng,

Từ biển cả kia thật dị thường,

Hố thẳm, hãy nhìn nhiều đợt sóng,

Dâng lên dốc đứng tựa sườn non,

Suppāraka, hãy nói cho bè bạn,

Ðây gọi tên gì của đại dương?

Bồ-tát đáp lại qua vần kệ:

119. Này các thương nhân cảng Bharukaccha,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Vaḷabhāmukhī đại dương này đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Ngài nói tiếp:

– Này các hiền hữu, một khi thuyền vào trong biển Vaḷabhāmukhī này thì không thể nào trở về được. Nếu thuyền này vào đó, nó sẽ chìm và tan nát.

Bấy giờ, có cả bảy trăm mạng người trên thuyền này, họ đều sợ chết nên họ đồng thanh thốt lên một tiếng kêu vô cùng thảm thiết chẳng khác nào tiếng kêu la của những kẻ đang bị đốt cháy trong chốn địa ngục tận cùng (địa ngục Vô Gián). Bậc Ðại sĩ nghĩ thầm: “Trừ ta ra không ai có thể cứu mạng họ được. Ta quyết cứu họ bằng một lời thề chân lý.” Rồi ngài nói lớn:

– Này các hiền hữu, hãy mau mau tắm cho ta bằng nước hương thơm, mặc y phục mới cho ta, dọn ra một chén nước đầy và đưa ta đứng trước con thuyền!

Cả bọn vội làm như vậy. Bậc Ðại sĩ cầm chén nước đầy bằng cả hai tay và đứng trước mũi thuyền thực hiện một lời nguyện cầu chân lý trong khi ngâm vần kệ cuối cùng:

120. Từ khi ta nhớ rõ về thân,

Trí tuệ đầu tiên phát khởi dần,

Không một người nào ta sát hại,

Là điều ta đã biết tinh tường,

Nều lời cầu nguyện này chân chánh,

Mong ước thuyền về chốn vạn an.

Bốn tháng qua, con thuyền đã du hành trong những vùng biển xa xôi nay dường như được ban cho thần lực siêu phàm nên chỉ trong một ngày nó trở lại hải cảng Bharukaccha, vào tận trên đất liền cho đến khi dừng lại trước cửa nhà của vị thuyền trưởng kia sau khi nhảy vọt qua một khoảng chừng một ngàn một trăm cubit.[19] Bậc Ðại sĩ phân phát cho các thương nhân tất cả vàng bạc, trân châu, san hô, kim cương và bảo:

– Số châu báu này là đủ cho các bạn rồi, vậy đừng du hành đường biển nữa!

Sau đó, ngài thuyết pháp cho họ, đến khi đã làm xong các việc bố thí và các thiện sự suốt đời, sau khi mạng chung, ngài đi lên cộng trú với hội chúng ở thiên giới.

***

Sau khi chấm dứt pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Như Lai cũng rất thông thái như bây giờ vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ, hội chúng của đức Phật là hội chúng thương nhân và Ta chính là Trí giả Suppāraka.

  1. Xem Cp. 84, Sīlavanāgacariya (Hạnh của tượng vương Sīlava).

  2. Xem J. VI. 70, Sāmajātaka (Chuyện hiếu tử Sāma), số §540.

  3. Xem Cp. 89, Dhammadevaputtacariya (Hạnh của thiên tử Dhamma); Miln. 200, Kusalākusalasamapañha (Câu hỏi về sự bằng nhau của thiện và bất thiện).

  4. Xem J. V. 278, Kusajātaka (Chuyện Đại đế Kusa), số §531.

  5. Hai câu kệ 49-50, tham chiếu S. I. 42, Bhītāsutta (Kinh Khủng bố); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1315. 0361b09); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.314. 0479c03).

  6. Xem J. III. 397, Koṭisimbalijātaka (Chuyện thần cây bông vải), số §412.

  7. Xem J. I. 252, Vedabbhajātaka (Chuyện Bà-la-môn Vedabbha), số §48.

  8. Bản Tích Lan và Thái Lan viết Yudhañjaya. Bản CST viết Yudhañcaya. Xem D. II. 220, Mahāgovindasutta (Kinh Đại Điển Tôn), số 19; Cp. 92, Yudhañjayacariya (Hạnh của đức Bồ-tát Yudhañjaya).

  9. Xem J. IV. 79, Ghatajātaka (Chuyện Trí giả Ghata), số §454.

  10. Xem J. I. 248, Rohiṇījātaka (Chuyện nữ tỳ Rohiṇī), số §45.

  11. Xem J. V. 177, Cullasutasomajātaka (Chuyện Tiểu Sutasoma), số §525.

  12. Xem J. V. 312, Sona-Nanda-jātaka (Chuyện hai Hiền giả Sona và Nanda), số §532.

  13. Xem J. VI. 257, Vidhurapaṇḍitajātaka (Chuyện bậc Đại trí Vidhura), chuyện này trong bản Tích Lan và PTS là số 545, trong bản CST là số 546.

  14. Xem J. IV. 15, Saṁkhajātaka (Chuyện Bà-la-môn Saṁkha), số §442.

  15. Tám pháp của thế giới này chỉ cho được-mất, khen-chê, vui-buồn, vinh-nhục.

  16. Bốn đạo quân gồm có tượng binh (voi), kỵ binh (ngựa), xa binh (xe), bộ binh.

  17. Xem J. III. 98, Kālabāhujātaka (Chuyện con khỉ Kālabāhu), số §329.

  18. Bản Tích Lan và PTS viết Vaḷabhāmukhī. Bản CST viết Baḷavāmukhī. Bản Thái Lan viết Balavāmukhī.

  19. 1 cubit = 45cm.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.