Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§461. CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG DASARATHA (Dasarathajātaka) (J. IV. 123)
Lakkhaṇa hiền đệ lẫn Sītā...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về một người địa chủ có cha chết.
Khi người cha từ trần, lòng người ấy tràn ngập đau buồn, bỏ dở mọi công việc của mình, ông chìm đắm trong nỗi u sầu. Vào một buổi sáng, bậc Ðạo sư quán chiếu thế gian, nhận thấy người ấy đã đến thời kỳ thuần thục để đắc quả Dự lưu. Hôm ấy, khi đã đi khất thực tại Xá-vệ và thọ thực xong, Ngài bảo các Tỷ-kheo lui về rồi Ngài đem theo một Tỷ-kheo trẻ đi đến nhà người ấy. Ngài chào và nói với ông trong lúc Ngài ngồi đó bằng những lời ngọt ngào như mật:
– Này cư sĩ, ông đang sầu muộn phải chăng?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Con đang buồn vì cha con mất!
Bậc Ðạo sư bảo:
– Này cư sĩ, các bậc Trí nhân ngày xưa hiểu rõ tám pháp của thế giới này,[15] nên khi cha mất, các ngài không thấy đau buồn dù chỉ là mảy may.
Rồi theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, tại Ba-la-nại có một vị đại vương tên là Dasaratha từ bỏ các ác đạo và cai trị theo Chánh pháp. Trong số mười sáu ngàn cung phi, vị chánh hậu sinh hạ hai vương tử và một công chúa. Thái tử được đặt tên là Rāmapaṇḍita (Trí giả Rāma). Vị thứ hai được đặt tên Lakkhaṇa (Cát Tường) và tên của công chúa là Sītā (Thanh Lương).
Theo thời gian, chánh hậu qua đời. Lúc bà từ trần, vua bị nỗi đau buồn xâm chiếm trong một thời gian, nhưng khi được triều thần thúc giục, ngài cử hành tang lễ bà xong, lại phong cho một vương phi khác lên làm chánh hậu. Bà này được vua hết sức sủng ái. Sau đó bà thụ thai, được vua chăm sóc rất ân cần chu đáo và sinh hạ một hoàng nam đặt tên là Bharata (Hộ Lực).
Vua rất yêu quý vương tử ấy và bảo chánh hậu:
– Này Ái khanh, ta ban cho nàng một ân huệ, nàng hãy chọn đi!
Bà nhận đặc ân trên, nhưng xin vua cho bà hoãn lại sự lựa chọn ấy một thời gian. Khi vương nhi lên bảy tuổi, bà đến yết kiến vua và tâu:
– Tâu Thánh thượng, ngài đã hứa ban một đặc ân cho vương tử con của thần thiếp, giờ đây xin ngài ban cho thần thiếp được chăng?
Vua phán:
– Ái khanh hãy chọn đi!
Bà bảo:
– Tâu Thánh thượng, xin ban vương quốc này cho con thần thiếp!
Nghe vậy, vua bất ngờ, sửng sốt liền răn đe:
– Lui ra ngay, này nữ nhân đê tiện! Hai vương nhi của ta sáng rực như hai ngọn lửa hồng, ngươi muốn giết chúng đi rồi đòi ngai vàng cho con của ngươi đấy chăng?
Bà hoảng sợ chạy về cung thất nguy nga của bà rồi các ngày tiếp theo lại cố xin vua đặc ân ấy mãi. Vua không chấp thuận ban cho bà ân huệ ấy. Ngài nghĩ thầm: “Nữ nhân thường vong ân và phản bội, ác phụ này có thể dùng chiếu chỉ giả mạo hay hối lộ gian trá để sai giết các con ta.” Vì vậy, ngài cho triệu hai con đến và kể hết mọi việc cho con nghe rồi phán:
– Này hai vương nhi, nếu các con ở đây chắc tai họa có thể xảy ra cho các con. Vậy hãy qua vương quốc bên cạnh ta, hoặc vào rừng, rồi khi thân ta đã được hỏa táng, hãy trở về thừa kế vương vị thuộc về gia tộc của các con!
Sau đó, ngài triệu các thầy tướng số đến hỏi về thọ mạng của ngài. Họ tâu rằng ngài có thể sống thêm mười hai năm nữa. Rồi ngài bảo:
– Này các con, sau mười hai năm các con phải trở về và giương cao chiếc lọng của hoàng gia.
Hai vương tử hứa lời xong và vừa đi khỏi cung điện vừa khóc lóc. Công nương Sītā nói: “Ta cũng sẽ đi cùng hai vương huynh.” Nàng vào từ biệt phụ vương, vừa ra đi vừa khóc lóc. Cả ba anh em lên đường giữa đám đông dân chúng. Ba vị bảo dân chúng lui về rồi tiến lên cho đến khi đi đến tận vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ở một nơi có nước chảy nhiều và thuận tiện để hái quả rừng, hai vị dựng am tu và sống tại đó bằng quả cây.
Trí giả Lakkhaṇa và Sītā nói với Trí giả Rāma:
– Ðại hiền huynh ở địa vị thân phụ của chúng em, vậy xin ở lại trong am và chúng em sẽ đi hái quả về nuôi hiền huynh.
Chàng đồng ý, từ đó Trí giả Rāma ở tại nhà, còn hai em cùng đi hái quả rừng về nuôi chàng. Ba vị sống tại đó như vậy và nuôi thân bằng quả rừng hoang dại, song Vua Dasaratha héo mòn vì nhớ các con nên từ trần vào năm thứ chín. Trong lúc cử hành tang lễ vua, hoàng hậu ra lệnh giương chiếc lọng phong vương cho con trai bà là Vương tử Bharata. Nhưng triều thần bảo:
– Các vị vương tử chúa tể của chiếc lọng này đang ở trong rừng.
Nên các vị đại thần không cho phép việc ấy. Vương tử Bharata nói:
– Ta sẽ đi tìm Vương huynh Rāma trong rừng về và giương chiếc lọng phong vương cho ngài.
Mang theo năm biểu tượng của vương quyền, chàng lên đường cùng một đoàn hộ tống đầy đủ bốn đạo quân,[16] đến nơi ba vị đang trú ngụ. Không xa đó mấy, chàng ra lệnh cắm trại rồi cùng vài triều thần đi đến viếng vùng ẩn am vào lúc Trí giả Lakkhaṇa cùng Sītā đã đi vào rừng.
Trí giả Rāma đang ngồi ở cửa am, vô tư và thanh thản như một pho tượng bằng vàng ròng vững chắc. Vị vương tử đến gần ngài đảnh lễ rồi đứng một bên, kể cho ngài nghe mọi việc xảy ra ở vương quốc, vừa quỳ xuống chân ngài cùng triều thần vừa òa lên khóc nức nở. Trí giả Rāma không buồn cũng không khóc, tâm trí ngài không còn bị xúc động nữa.
Sau khi Bharata đã hết khóc và ngồi xuống, mãi đến chiều hai vị kia mới trở về với mớ quả rừng. Trí giả Rāma suy nghĩ: “Hai em kia còn trẻ, chúng không có trí tuệ tỉnh giác như ta. Nếu thình lình chúng được nghe tin rằng phụ vương đã băng hà, nỗi đau khổ sẽ lớn quá mức chúng chịu đựng, ai biết được tim chúng chẳng tan nát ra? Vậy ta sẽ dụ chúng bước xuống nước rồi tìm phương tiện tỏ bày sự thật.” Rồi vừa chỉ cho hai em một nơi ở phía trước có nước, ngài bảo:
– Các em đi ra ngoài lâu quá, vậy đây là cách để các em hối lỗi. Hãy bước xuống vũng nước kia và đứng đó!
Rồi ngài ngâm nửa vần kệ:
84. Lakkhaṇa hiền đệ lẫn Sītā,
Bước xuống ao kia cả đấy mà.
Chỉ một lời thế là đủ, hai vị bước xuống nước và đứng đó. Lát sau, ngài báo tin cho hai em bằng cách ngâm nửa vần kệ tiếp:
Vương tử Bharata vừa nói rõ,
Dasaratha Đại đế đã băng hà.
Khi hai vị nghe tin phụ vương đã băng hà liền ngất xỉu. Ngài lặp lại tin ấy, hai vị lại ngất xỉu, đến lần thứ ba hai vị vẫn ngất đi. Các triều thần liền đỡ họ dậy và đem họ ra khỏi nước rồi đặt họ lên chỗ đất khô ráo. Tuy hai vị đã được an ủi khuyên lơn nhưng cả hai vẫn ngồi khóc lóc, kêu gào. Lúc ấy Vương tử Bharata suy nghĩ: “Vương huynh Lakkhaṇa và Vương tỷ Sītā không thể nào ngăn được nỗi sầu bi khi nghe tin phụ vương từ trần, song Trí giả Rāma chẳng than khóc kêu gào gì cả. Ta không biết nguyên nhân gì khiến vương huynh chẳng sầu muộn, ta sẽ hỏi xem.” Rồi chàng ngâm vần kệ thứ hai hỏi:
85. Cho biết, Rāma, bởi lực gì,
Gặp buồn huynh lại chẳng sầu bi,
Lòng huynh sầu muộn không tràn ngập,
Dù được tin vương phụ mất đi?
Sau đó, Rāma giải thích lý do tại sao ngài không cảm thấy sầu bi bằng cách đáp lời:
86. Khi chẳng làm sao giữ vật nào,
Dù cho người ấy có kêu gào,
Vậy nên người trí đầy thông tuệ,
Phải tự hành mình bởi cớ sao?
87. Các nhóm thanh niên, kẻ trưởng thành,
Người ngu cùng với bậc thông minh,
Giàu, nghèo, kết cuộc đều cầm chắc,
Phải chết từng người giữa chúng sanh.
88. Như ta đứng trước quả cây muồi,
Hay phát sinh niềm sợ quả rơi,
Cũng vậy phát sinh lòng sợ chết,
Với phàm nhân ở khắp muôn người.
89. Nhiều kẻ vừa trông thấy buổi mai,
Có khi chiều tối đã lìa đời,
Và người được thấy khi chiều xuống,
Vừa mới sáng mai đã mất rồi.
90. Nếu người ngu dại hoặc cuồng điên,
Phúc lạc đổ dồn đến tự nhiên,
Khi nó tự hành bằng nước mắt,
Bậc hiền làm giống kẻ kia liền.
91. Cách này đây nó tự hành mình,
Kẻ ấy gầy mòn lại tái xanh,
Nước mắt chẳng làm gì ích lợi,
Chẳng làm người chết được hồi sinh.
92. Như nhà cháy rực, lửa đang hồng,
Ðược dập tắt liền với nước sông,
Người mạnh, người hiền, người có trí,
Những người hiểu giáo lý tinh thông,
Nỗi buồn đem rắc như bông vải,
Khi có cuồng phong thổi bão bùng.
93. Một khi sinh vật phải lìa trần,
Một kẻ khác liền được thọ thân,
Kết hợp với nhiều dây trói buộc,
Có cùng đặc tính một nguồn căn,
Phước phần mỗi kẻ đều tùy thuộc,
Vào những dây liên hệ buộc ràng.
94. Người mạnh, tinh thông lý nhiệm mầu,
Quán sát đời này lẫn kiếp sau,
Hiểu bản chất này chung của chúng,
Cho nên chẳng bị nỗi buồn rầu,
Khiến cho tâm trí mình dao động,
Dù có khổ đau đến độ nào.
95. Vậy ta nên cống hiến song thân,
Phụng dưỡng các ngài phẩm vật dâng,
Ta sẽ bảo tồn di tích cũ,
Ấy là hành động của Hiền nhân.[17]
Trong các vần kệ này, ngài đã giải thích tính vô thường của vạn vật.
Khi hội chúng nghe pháp thoại này của Trí giả Rāma làm sáng tỏ quy luật vô thường, họ đều tiêu tan mọi nỗi sầu muộn. Sau đó, Vương tử Bharata kính chào Trí giả Rāma và van xin ngài nhận lãnh vương quốc ở Ba-la-nại. Trí giả Rāma bảo:
– Này Vương đệ, hãy đem Lakkhaṇa và Sītā về với Vương đệ và các Vương đệ hãy chăm lo cai trị đất nước!
– Tâu Chúa thượng, không được, xin Chúa thượng đảm nhận quốc độ.
– Này Vương đệ, Phụ vương đã ban lệnh cho ta nhận lãnh quốc độ sau mười hai năm. Nếu ta về bây giờ, ta sẽ không thi hành lệnh vua ban. Vậy ba năm nữa ta sẽ về.
– Thế ai sẽ trị nước trong thời gian này?
– Chính Vương đệ.
– Tiểu đệ không muốn thế.
– Vậy thì cho đến khi ta về, đôi hài này sẽ làm việc đó.
Rāma bảo, rồi tháo đôi hài rơm ra, ngài trao chúng cho vương đệ. Thế là ba vị nhận lấy đôi hài, từ tạ vị Hiền nhân và lên đường về Ba-la-nại cùng với đoàn người hộ tống đông đảo. Trong ba năm liền, đôi hài ấy cai trị vương quốc. Triều thần đặt chúng lên ngai khi hội chúng xét xử một việc gì. Nếu vụ kiện được xét xử sai, đôi hài sẽ đập vào nhau và khi thấy dấu hiệu ấy, sự việc kia được xét lại đến khi việc phán xét được đúng đắn thì đôi hài nằm yên.
Khi thời gian ba năm ấy đã qua, bậc Trí nhân ra khỏi rừng, đi đến Ba-la-nại và vào ngự viên. Các vương tử nghe tin ngài đến liền cùng một đoàn hộ tống đông đảo đi đến hoa viên và phong Sītā lên làm chánh hậu rồi làm lễ Quán đảnh cho cả hai. Khi cử hành lễ Quán đảnh như thế xong, bậc Ðại sĩ đứng trên chiếc vương xa lộng lẫy với một đám đông vây quanh tiến vào kinh thành, đi diễu quanh một vòng theo hướng bên hữu rồi ngự lên thượng lầu vĩ đại của cung điện nguy nga Candaka kia. Ngài trị nước tại đó rất chân chánh trong mười sáu ngàn năm và về sau đi lên cộng trú cùng hội chúng của chư thiên.
Vần kệ này là của bậc Giác Ngộ giải thích phần kết thúc câu chuyện:
96. Trăm năm nhân với sáu mươi lần,
Một vạn năm thêm, chuyện kể rằng,
Đại đế Rāma lên ngự trị,
Cổ ngài ba ngấn, hạnh phúc tràn.
***
Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết các sự thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các sự thật, người địa chủ đã được an trú vào Sơ quả (Dự lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Thời ấy, Vua Suddhodana là Vua Dasaratha, Hoàng hậu Mahāmāyā là mẫu hậu, mẹ của Rāhula là Sītā, Ānanda là Bharata và Ta chính là Trí giả Rāma.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.