Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§460. CHUYỆN THÁI TỬ YUVAÑJAYA (Yuvañjayajātaka)[8] (J. IV. 119)

Con xin đảnh lễ đấng Quân vương...

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về đại sự xuất thế của Ngài. Một ngày kia, các Tỷ-kheo tụ họp trong pháp đường, một vị Tỷ-kheo bảo vị kia:

– Này Hiền giả, đấng Thập Lực trước kia hẳn có thể sống tại gia, có thể làm một vị Chuyển Luân Thánh Vương ở giữa đại thế giới đầy đủ báu vật, vinh quang với bốn thần lực siêu phàm,[9] được các vương tử vây quanh hơn ngàn vị. Tuy thế, Ngài đã từ bỏ mọi cảnh vinh quang ấy khi Ngài nhận thấy mối nguy hiểm nằm trong các dục. Nửa đêm, cùng với Channa (Xa-nặc), Ngài cưỡi vương mã Kanthaka (Kiền-trắc) của Ngài và ra đi. Trên bờ sông Anoma, dòng sông vẻ vang ấy, Ngài từ giã thế tục và suốt sáu năm liền, Ngài sống khổ hạnh ép xác, sau đó Ngài tự tu tập và chứng đắc Chánh đẳng giác.

Tăng chúng nói với nhau như vậy về công hạnh của đức Phật. Bậc Ðạo sư bước vào hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, trong lúc ngồi đây, các ông đang nói về vấn đề gì?

Tăng chúng thưa với Ngài, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai làm đại sự xuất thế. Ngày xưa, Như Lai cũng đã từ bỏ ngai vàng ở vương quốc Ba-la-nại rộng đến mười hai do-tuần.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Sabbadatta cai trị thành Ramma. Kinh thành mà nay ta gọi là Ba-la-nại, đã được gọi là thành Surundhana trong Chuyện Udaya,[10] là Sudassana trong Chuyện Tiểu Sutasoma,[11] là Brahmavaddhana trong Chuyện hai Hiền giả Sona và Nanda,[12] hay là Pupphavatī trong Chuyện Khaṇḍahāla,[13] hay là Molinī trong Chuyện Bà-la-môn Saṁkha.[14] Còn trong Chuyện Thái tử Yuvañjaya này, nó lại có tên là thành Ramma. Như vậy tên đó thay đổi theo nhiều hoàn cảnh.

Thời ấy, Vua Sabbadatta có một ngàn vương tử và ngài phong chức phó vương cho Thái tử Yuvañjaya. Một sáng sớm kia, thái tử ngự lên vương xa lộng lẫy của chàng trong quang cảnh cực kỳ uy nghi, chàng nhàn du trong vườn thượng uyển. Khắp các ngọn cây, ngọn cỏ, đầu cành, trên các mạng nhện giăng tơ qua các đầu ngọn lau, chàng thấy các giọt sương lủng lẳng như vô số xâu chuỗi ngọc trai. Chàng hỏi:

– Này hiền hữu quản xa, cái gì đây?

– Tâu Điện hạ, đây là chất lỏng rơi xuống trong mùa lạnh mà người ta gọi là sương mai.

Thái tử tiếp tục du ngoạn vui chơi trong ngự viên trọn ngày hôm đó. Về chiều, khi chàng quay lại lối cũ, chàng không còn thấy hạt sương nào nữa. Chàng hỏi:

– Này hiền hữu quản xa, những hạt sương đâu rồi, nay ta không còn thấy chúng nữa?

Vị kia đáp:

– Tâu Điện hạ, khi mặt trời lên cao, sương tan hết và chìm xuống đất.

Nghe vậy, thái tử thất vọng bảo:

– Ðời người ta cũng được tạo thành chẳng khác gì các giọt sương mai trên ngọn cỏ. Ta cần phải thoát khỏi gánh nặng bức bách của bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Ta phải từ giã song thân và rời thế tục.

Như vậy là do nhân duyên các giọt sương mai, chàng nhận thức ba cõi sinh hữu (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) như thể đang ở trong ngọn lửa cháy bừng. Khi chàng về cung, chàng vào yết kiến phụ vương trong [đại] pháp đình nguy nga của ngài. Ðảnh lễ vua cha xong, chàng đứng sang một bên và ngâm vần kệ đầu để xin phép vua cha được rời thế tục:

73. Con xin đảnh lễ đấng Quân vương,

Giữa ngự quan, bằng hữu, đại thần,

Hoàng thượng, con mong rời thế tục,

Xin Hoàng thượng chẳng chối từ con.

Kế đó, vua ngâm vần kệ thứ hai để khuyên can chàng:

74. Con có mơ gì, hỡi Yuvañ,

Cha ban tròn vẹn mọi cầu mong,

Nếu ai làm hại, cha che chở,

Con chớ làm tu sĩ ẩn thân.

Nghe thế, thái tử ngâm vần kệ thứ ba:

75. Chẳng có ai làm hại đến con,

Ước mơ con đạt được vuông tròn,

Song con muốn kiếm nơi an trú,

Mà tuổi già không phá mỏi mòn.

Bậc Ðạo sư ngâm nửa vần kệ để giải thích vấn đề này:

76. Thái tử tâu vầy với phụ vương,

Vua cha liền phán bảo cùng con.

Nửa vần kệ sau do đức vua ngâm:

“Ðừng rời thế tục, này Vương tử,

Dân chúng kinh thành thảy khóc thương.”

Vương tử lại đáp vần kệ này:

77. Ðại đế, đừng làm trẻ phải xa,

Cuộc đời không tục lụy phù hoa,

Con e say đắm nhiều tham dục,

Sẽ hóa mồi ngon của tuổi già.

Khi nghe nói điều này, vua cha phân vân do dự. Sau đó, mẫu hậu được tin:

– Tâu Lệnh bà, thái tử đang xin phép hoàng thượng để xuất gia.

Bà hỏi:

– Ngươi nói gì thế?

Tin ấy khiến bà ngạt thở liền ngự vào chiếc kiệu bằng vàng, bà bảo đi nhanh đến pháp đình và ngâm vần kệ thứ sáu:

78. Mẹ van con đó, hỡi con thân,

Và mẹ mong con phải ở gần,

Mẹ muốn gặp con hoài, thái tử,

Con đừng rời bỏ chốn phàm trần.

Khi nghe vậy, thái tử ngâm vần kệ thứ bảy:

79. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương,

Khi mặt trời lên rực ánh dương,

Cũng vậy là đời người thế tục,

Xin đừng cản bước, mẹ hiền thương.

Chàng nói vậy xong, bà vẫn van xin chàng mãi với mục đích ngăn cản chàng. Sau đó, bậc Ðại sĩ tâu với vua cha vần kệ thứ tám:

80. Bảo người khiêng kiệu, hãy cùng nâng,

Ðừng để mẹ già cứ cản ngăn,

Con trẻ muốn đi vào Thánh đạo,

Xa đời sinh diệt, tấu Minh quân!

Khi vua cha nghe con nói, ngài phán:

– Này Ái hậu, hãy lên kiệu về cung Thường Lạc của ta mà an nghỉ!

Trước lệnh của vua, đôi chân vương hậu quỵ xuống, rồi bà được các cung nữ vây quanh dìu về. Khi bước vào hậu cung, đứng nhìn về phía pháp đình, bà băn khoăn hỏi tin tức con mình. Sau khi mẫu hậu đi rồi, Bồ-tát lại xin phép vua cha lần nữa. Vua không thể từ chối chàng được liền phán:

– Này Thái tử thân yêu, cứ làm theo ý nguyện của con và từ bỏ thế tục.

Khi vừa nghe cha chấp thuận điều này, tiểu hoàng đệ của Bồ-tát là Vương tử Yudhiṭṭhila đến đảnh lễ vua cha và cũng xin phép theo đời xuất gia như thế, vua liền bằng lòng ngay. Cả hai vị vương tử từ biệt vua cha, và giờ đây sau khi từ bỏ mọi dục lạc thế gian, hai vị ra đi từ pháp đình giữa đại chúng. Chánh hậu nhìn theo bậc Ðại sĩ và than khóc:

– Thái tử đã từ giã thế tục, kinh thành Ramma này sẽ trống rỗng.

Rồi bà ngâm đôi kệ:

81. Nhanh lên cầu hạnh phúc, con ôi!

Ta chắc Ramma trống vắng thôi,

Ðại đế Sabba vừa chấp thuận,

Yuvañ Thái tử xuất gia rồi.

82. Thái tử, đại huynh giữa cả ngàn,

Hoàng nhi trông dáng thật như vàng,

Từ đây vương tử oai hùng đã,

Ðắp chiếc y vàng, bỏ thế gian.

Bồ-tát không đi ngay lên đường tu hành, ngài đến từ biệt song thân rồi cùng với tiểu đệ là Vương tử Yudhiṭṭhila rời kinh thành và bảo đại chúng đang theo sau hai vị phải quay về, còn hai vị tiến lên vùng Tuyết Sơn. Tại đó, hai vị dựng lên một thảo am ở một chốn đầy an lạc và hành trì cuộc đời của bậc Hiền nhân thanh tịnh, tu tập thiền định hướng thượng. Hai vị sống suốt đời bằng các củ quả rừng rồi khi mạng chung được sinh lên cõi Phạm thiên.

Vấn đề này được giải thích qua vần kệ cuối cùng phát xuất từ trí tuệ tối thắng của bậc Giác Ngộ:

83. Vương tử Yuvañ với Yudhi,

Sống đời thanh tịnh của Hiền nhân,

Giã từ vương phụ và vương mẫu,

Chặt đứt làm đôi xích tử thần.

***

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai từ bỏ vương quốc để đi theo đời tu hành mà ngày xưa cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thuở ấy, song thân trong hoàng tộc ngày nay là vương phụ và mẫu hậu, Ānanda là tiểu đệ Yudhiṭṭhila và Thái tử Yuvañjaya chính là Ta.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.