Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§458. CHUYỆN VUA UDAYA (Udayajātaka) (J. IV. 104)

Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn...

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Chuyện này sẽ được giải thích trong Chuyện Đại đế Kusa.[4]

Bậc Ðạo sư hỏi người này:

– Này Tỷ-kheo, có đúng là ông thối thất như Tăng chúng bảo chăng?

Người ấy đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Ngài nói:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông xuất gia trong giáo pháp đưa đến giải thoát như vậy rồi mà ông lại thối thất vì tham dục? Các bậc Trí nhân ngày xưa từng làm vua tại Surundhana, một kinh thành phồn thịnh rộng mười hai do-tuần mỗi bề, dù suốt cả bảy trăm năm sống cùng phòng với một nữ nhân diễm lệ như thiên nữ cũng không hề bị lôi cuốn vào dục vọng, thậm chí cũng chẳng bao giờ đưa mắt nhìn nàng với lòng ham muốn cả.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, khi vua xứ Kāsi đang trị vì quốc độ Kāsi tại kinh thành Surundhana, ngài không có con cái gì cả. Vì thế, ngài ra lệnh cho các vương phi cầu tự. Bấy giờ, Bồ-tát từ cõi Phạm thiên xuống nhập vào mẫu thai của chánh hậu. Và do ngài sinh ra đời làm vui lòng đại chúng nên được đặt tên là Udayabhadda (Thiện Lai). Vào lúc vương nhi biết đi chập chững thì một người khác xuất hiện ở cõi đời này, từ cõi Phạm thiên xuống nhập mẫu thai làm công chúa của một bà vương phi khác và nàng cũng được đặt cùng tên Udayabhaddā.

Khi thái tử đến tuổi trưởng thành, chàng tinh thông mọi ngành học thuật, và hơn nữa, chàng trong sáng đến độ chàng không biết gì về các hành động xác thịt, ngay cả trong các giấc mơ, tâm chàng cũng không hướng đến ác dục. Vua cha ước mong con trai làm lễ Quán đảnh phong vương nên ra lệnh: “Đã đến lúc thái tử lên ngôi báu huy hoàng, ta sẽ cho người diễn tuồng để thái tử giải trí.” Nhưng Bồ-tát đáp:

– Con không thiết ngai vàng, lòng con không hướng về ái dục.

Chàng cứ bị nài ép mãi nên đáp lại bằng cách bảo tạc một tượng nữ nhân bằng vàng ròng rồi trình lên song thân với lời tâu:

– Khi nào hoàng nhi tìm được một nữ nhân như vậy, hoàng nhi sẽ nhận ngôi báu.

Quần thần đem bức tượng vàng đi khắp cõi Diêm-phù-đề, nhưng họ không tìm ra nữ nhân nào giống như vậy cả. Cuối cùng họ trang điểm cho nàng Udayabhaddā thật lộng lẫy rồi đưa nàng ra so với bức tượng, dung sắc nàng còn vượt xa khi nàng đứng cạnh nó. Thế là quần thần đem gả nàng cho Bồ-tát làm vương phi dù cả hai vị đều không muốn vì nàng là Công chúa Udayabhaddā, em ruột cùng cha khác mẹ với ngài, rồi quần thần lại làm lễ Quán đảnh phong vương cho ngài.

Cả hai vị cùng nhau sống một cuộc đời thanh tịnh, không vướng dục tình. Theo thời gian, khi song thân qua đời, Bồ-tát trị vì vương quốc. Hai vị ở chung phòng nhưng từ bỏ dục vọng đến độ không bao giờ nhìn nhau với vẻ ham muốn. Không những thế, hai vị còn ước nguyền rằng nếu một trong hai vị từ trần trước thì sẽ trở lại gặp vị kia từ cõi mới tái sanh để báo tin: “Ta đã tái sanh ở nơi kia.”

Thời bấy giờ, từ lúc làm lễ Quán đảnh, Bồ-tát sống bảy trăm năm rồi từ trần. Vì không có vua nào nối ngôi nên có lệnh của Tiên đế Udayabhadda ban bố rằng triều đình phải lo trị nước. Bồ-tát đã trở thành Thiên chủ Sakka (Đế-thích) trên cõi trời Ba Mươi Ba, và do cảnh vinh quang này quá huy hoàng nên ngài không nhớ đến đời trước trong vòng bảy ngày. Thế là sau bảy trăm năm theo ước tính của loài người, ngài nhớ lại và tự nhủ: “Ta muốn trở về gặp Công chúa Udayabhaddā và sẽ thử lòng nàng bằng vàng bạc quý, rồi rống lên tiếng rống sư tử, ta sẽ thuyết giáo, như thế là ta thành tựu lời nguyện ước xưa.”

Vào thời ấy, chuyện kể rằng đời sống con người kéo dài được mười ngàn năm. Bấy giờ, vào ban đêm, cửa cung khóa chặt, quân canh đã được bố trí cẩn mật và công chúa đang ngồi yên lặng một mình trong cung điện nguy nga ở lầu thượng, suy tư về công hạnh của nàng. Lúc ấy, Thiên chủ Đế-thích cầm một chiếc đĩa vàng đựng đầy tiền vàng và xuất hiện trong khuê phòng trước mặt nàng rồi đứng ra một bên. Ngài bắt đầu ngâm vần kệ thứ nhất với nàng:

37. Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn,

Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,

Diễm kiều trông tựa như thiên nữ,

Xin được đêm nay ở với nàng.

Công chúa đáp lời này qua hai vần kệ sau:

38. Thành này tường bọc, lũy đào sâu,

Việc đến gần đây khó biết bao,

Trong lúc tháp cao và lũy rộng,

Canh phòng đoàn kết với cung đao.

39. Chẳng người niên thiếu, bậc anh hùng,

Có thể vào đây được dễ dàng,

Hãy nói việc gì là cớ sự,

Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung?

Sau đó, Thiên chủ Đế-thích ngâm vần kệ thứ tư:

40. Ðại quỷ là ta, hỡi tố nga,

Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,

Ban ta ân huệ nàng nương tử,

Ðây đĩa vàng, xin nhận của ta.

Nghe thế, công chúa liền ngâm vần kệ thứ năm:

41. Từ thuở Thiện Lai vĩnh biệt trần,

Ta không đòi, dẫu quỷ hay thần,

Hoặc người ở cạnh, này thiên tử,

Ðừng đến nữa đây, chớ ở gần!

Nghe giọng sư tử hống của nàng, Thiên chủ không còn đứng lại nữa mà làm ra vẻ giã từ nàng rồi lập tức biến mất. Hôm sau cũng vào giờ ấy, ngài cầm cái chén bạc đựng đầy tiền vàng và đến nói với nàng qua vần kệ thứ sáu:

42. Cực lạc cùng nhau biết rõ rành,

Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi tình,

Khiến người đời phạm bao điều ác,

Ôi quý nương, nàng chớ vội khinh!

Chén bạc, hãy nhìn, ta kính tặng,

Hỡi nàng cười mỉm giá khuynh thành.

Lúc ấy, công chúa suy nghĩ: “Nếu ta cứ để vị kia nói mãi chuyện nhảm nhí, y sẽ đến hoài. Vậy ta không nói gì với y nữa.” Thế là nàng không nói thêm lời nào. Thiên chủ Đế-thích thấy nàng không có gì để nói nữa nên biến mất từ chỗ đứng.

Ngày kế tiếp cũng vào giờ ấy, ngài cầm chén sắt đựng đầy tiền vàng và bảo:

– Thưa Công nương, nếu nàng ban cho ta tình yêu của nàng, ta sẽ tặng nàng chén sắt đầy vàng này.

Khi trông thấy ngài, công chúa ngâm vần kệ thứ bảy:

43. Nam nhi mong tán tỉnh hồng quần,

Ðem tặng vàng kia cứ mãi tăng,

Cho đến khi nàng chiều thỏa ý,

Nhưng ta xét cách của thiên thần,

Nơi ngài khác hẳn, nay ngài đến,

Tặng vật xem ra cứ giảm dần.

Khi nghe những lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Thưa công nương, ta là một kẻ đi buôn rất thận trọng. Ta không phung phí của cải vô ích đâu. Nếu nàng tăng dần vẻ xuân sắc, ta sẽ tăng số tặng vật cho nàng, nhưng sắc đẹp của nàng đang tàn tạ dần vì thế ta giảm dần số tặng vật đó thôi.

Nói xong, ngài ngâm ba vần kệ:

44. Ôi mỹ nhân, xuân sắc tàn phai,

Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,

Hôm nay nàng phải già hơn trước,

Nên số vàng ta tặng giảm hoài.

45. Vậy thưa nàng, nữ chúa huy hoàng,

Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,

Trong lúc ngày đêm qua thấm thoát,

Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn.

46. Song hỡi công nương trí tuyệt trần,

Nếu như nàng thuận ý bằng lòng,

Giữ gìn Thánh đạo và thanh tịnh,

Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần.

Ngay sau đó, công chúa ngâm một vần kệ khác:

47. Chư thiên chẳng giống các người trần,

Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,

Thiên chúng làm sao không thể xác?

Ðiều này, đại quỷ nói cho cùng.

Lúc ấy, Thiên chủ giải thích vấn đề này qua một vần kệ nữa:

48. Thiên chúng không như người thế gian,

Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,

Mai đây và mãi về sau nữa,

Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng.

Khi nàng nghe nói dung sắc trên thiên giới, nàng hỏi con đường lên đó qua một vần kệ khác:

49. Ðiều gì làm khiếp sợ quần sinh,

Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,

Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,

Xin ngài giải thích thật phân minh,

Làm sao đi hướng về thiên giới,

Nơi ấy chẳng còn phải hãi kinh.[5]

Kế đó, Thiên chủ giải thích vấn đề trong một vần kệ nữa:

50. Ai khéo hộ trì khẩu, ý, căn,

Chẳng ưa làm ác nghiệp về thân,

Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,

Ban phát rộng lòng, tín chánh chân,

Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ý,

Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng.

Khi công chúa nghe lời ngài xong, nàng cảm tạ ngài qua một vần kệ khác:

51. Giống như bà mẹ, giống như cha,

Ðại lực thần đang giáo hóa ta,

Hỡi đại thần oai hùng mỹ diệu,

Ngài là ai đó, nói ngay ra.

Liền đó, Bồ-tát ngâm kệ:

52. Ta chính Thiện Lai, hỡi mỹ nhân,

Vì lời ước hẹn đến bên nàng,

Giờ đây đã nói, ta từ giã,

Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng!

Công chúa thở dài bảo:

– Ôi, Chúa thượng, ngài chính là Ðại vương Udayabhadda ư?

Rồi nàng nức nở khóc, nước mắt tuôn như suối chảy:

– Vắng bóng Chúa thượng, thần thiếp không thể nào sống được. Xin Chúa thượng dạy bảo thần thiếp cách nào thiếp có thể sống cùng Chúa thượng mãi mãi!

Nói xong, nàng lại ngâm kệ khác:

53. Nếu Ðại vương là chúa Thiện Lai,

Ðến đây vì nguyện ước không sai,

Thì xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,

Ðể sống cùng nhau mãi mãi hoài!

Tiếp theo, ngài ngâm vần kệ để giáo hóa nàng:

54. Thoáng chốc xuân thì vụt quá nhanh,

Ðời không bền vững, mọi loài sinh,

Chết rồi sống lại đời sau nữa,

Thối nát thân này thật mỏng manh,

Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,

Tiến lên vững bước giữ tâm thành.

55. Nếu cả trần gian mọi bạc vàng,

Thuộc quyền cai trị một anh quân,

Thánh nhân còn vượt xa vua ấy,

Trong cuộc thi đua giữa cõi trần,

Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,

Tín tâm giữ vững bước lên đàng.

56. Song thân cùng quyến thuộc, anh em,

Và vợ [có tiền lại kết duyên],

Tất cả đều ra đi lũ lượt,

Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,

Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,

Giữ tín tâm bền vững bước lên.

57. Thân kia, hãy nhớ sẽ làm thành,

Thực phẩm cho nhiều loại chúng sanh,

Hoan lạc cũng như niềm khổ não,

Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,

Ðời này nối tiếp đời sau mãi,

Vậy chớ buông lung, giữ tín thành!

Bậc Ðại sĩ đã thuyết pháp như vậy. Công chúa rất hoan hỷ với lời giáo hóa trên và nàng cảm tạ ngài với vần kệ cuối cùng:

58. Thiên thần này nói ngọt ngào,

Thế nhân thấy rõ ngắn sao cuộc đời,

Ðời buồn, ngắn ngủi thế thôi,

Ði theo đời sống không rời sầu bi,

Giã từ trần thế ta đi,

Từ kinh đô xứ Kāsi lên đàng.

Sau khi thuyết giáo như vậy cho nàng xong, Bồ-tát trở lại cõi của ngài.

Ngày kế tiếp, công chúa liền giao việc trị nước cho các triều thần, còn nàng trở thành ẩn sĩ ngay trong kinh thành ấy, ở hoa viên đầy an lạc. Tại đó, nàng vẫn sống theo chánh hạnh cho đến khi mạng chung, nàng được tái sanh ở cõi trời Ba Mươi Ba làm thị nữ của Bồ-tát.

***

Khi bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các sự thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các sự thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, thân mẫu La-hầu-la là công chúa và Thiên chủ Đế-thích chính là Ta.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.