Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§450. CHUYỆN PHÚ ÔNG KEO KIỆT BIḶĀRI (Biḷārikosiyajātaka) (J. IV. 62)

Khi món ăn không có giữa nồi...

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo nhiệt tâm bố thí.

Chuyện kể rằng sau khi nghe thuyết pháp, từ lúc hành trì giáo lý, vị này rất nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí. Chưa bao giờ ông ăn chén cơm đầy trừ khi đã chia phần cho kẻ khác, ngay cả nước cũng không uống nếu không đem cho kẻ khác. Ông chuyên tâm bố thí như vậy.

Thời ấy, chúng Tỷ-kheo bắt đầu nói về các đức tính của ông trong pháp đường. Bậc Ðạo sư đi vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì khi ngồi tại đây. Các vị ấy trình Ngài. Ngài cho gọi vị Tỷ-kheo ấy đến và hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có phải đúng như Ta đã nghe là ông nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí chăng?

Ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, người này không có tín tâm nên không tin tưởng một điều gì, đến như một giọt dầu trên đầu ngọn cỏ cũng không muốn cho ai. Sau đó, Ta điều phục người ấy, giáo hóa làm cho thuần thục và dạy cho kết quả của bố thí nên hỷ tâm bố thí này không rời người ấy ngay cả khi đã sang một đời khác.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh vào một gia đình giàu có. Khi đến tuổi khôn lớn, ngài được hưởng tài sản và khi thân phụ mất đi, ngài tiếp nhận địa vị phú gia của cha ngài.

Một ngày kia, khi xem xét lại sự giàu sang của mình, ngài suy nghĩ: “Tài sản của ta đây dĩ nhiên đầy đủ lắm, song những vị đã tích lũy tài sản ấy nay ở đâu rồi? Ta phải phân chia tài sản ra và bố thí.”

Vì thế, ngài xây một bố thí đường, trong lúc sinh thời, ngài bố thí rộng rãi và khi sắp mạng chung liền giao phó cho con trai ngài không được làm gián đoạn việc hành trì bố thí, còn ngài tái sanh làm Thiên chủ Đế-thích ở cõi trời Ba Mươi Ba. Con trai của ngài cũng bố thí như thân phụ đã làm rồi giao trọng trách ấy cho con trai mình và tái sanh lên làm Canda (thần Mặt trăng) giữa thiên chúng. Con trai vị này trở thành Suriya (thần Mặt trời), lại sinh ra một người con trở thành thần lái xe Mātali. Con trai vị này tái sanh làm Pañcasikha (Ngũ Kế), một vị gandhabba (càn-thát-bà), nhạc thần của Thiên chủ.

Song người con trai thứ sáu trong dòng họ này lại không có tín tâm, tàn nhẫn, không thương người, keo kiệt. Người này phá hủy, đốt cháy hết bố thí đường, đánh đập các hành khất, đuổi họ đi nơi khác làm ăn, chẳng hề cho ai chút gì dù bằng một giọt dầu ở đầu ngọn cỏ.

Lúc ấy, Thiên chủ Đế-thích nhìn lại các việc của ngài trong quá khứ, tự hỏi: “Truyền thống bố thí của ta có được tiếp tục chăng?” Suy nghĩ thế, ngài nhận xét: “Con trai ta tiếp tục bố thí, tái sanh làm Canda, con trai nó là Suriya, cháu nó là Mātali, và chắt nó là Pañcasikha, nhưng đứa con thứ sáu trong dòng họ đã phá bỏ truyền thống kia.” Lúc ấy, ngài chợt có ý nghĩ này, ngài muốn đi điều phục con người độc ác kia và dạy cho nó kết quả của bố thí. Vì vậy ngài triệu tập Canda, Suriya, Mātali, Pañcasikha đến gặp ngài và bảo:

– Này các Hiền giả, người con thứ sáu trong dòng họ ta đã phá bỏ truyền thống gia đình, nó đã đốt bố thí trường, đuổi đánh bọn hành khất đi chỗ khác và không cho ai chút gì cả. Vậy ta phải điều phục nó.

Thế là ngài cùng họ lên đường đi đến Ba-la-nại. Vào lúc ấy, phú gia kia phải đến chầu vua và khi đã trở về, đang đi đi lại lại dưới tháp canh thứ bảy, nhìn theo con đường. Thiên chủ bảo các vị thần:

– Các Hiền giả, hãy đợi cho đến khi ta bước vào rồi hãy lần lượt theo sau!

Cùng với những lời này, ngài bước tới và đứng trước phú gia kia, bảo ông:

– Này đại phú gia, hãy cho ta ăn với!

– Này Bà-la-môn, chẳng có gì ở đây cho ngài ăn cả, hãy đi nơi khác!

– Này đại phú gia, khi các Bà-la-môn khất thực thì chẳng nên từ chối.

– Này Bà-la-môn, trong nhà ta chẳng có thức ăn nấu sẵn, cũng chẳng có thức ăn để nấu. Hãy đi đi!

– Này đại phú gia, ta muốn đọc một câu kệ cho ngài, hãy lắng nghe!

– Ta chẳng muốn nghe kệ gì cả, hãy đi đi, đừng đứng ở đây!

Nhưng Thiên chủ không để ý lời ông và ngâm hai vần kệ:

125. Khi món ăn không có giữa nồi,

Thiện nhân tìm, vẫn muốn cho người,

Còn ngài đang nấu thì không tốt,

Nếu chẳng muốn chia sẻ với ai.

126. Phóng dật, xan tham, kẻ chối từ,

Chẳng hề đem bố thí bao giờ,

Còn người nào thích làm công hạnh,

Là một Trí nhân, phải biết cho.[23]

Khi người này nghe nói vậy liền đáp:

– Thôi được, xin vào ngồi đó, ngài sẽ được ăn đôi chút.

Thiên chủ Đế-thích vừa bước vào vừa ngâm lại các vần kệ ấy và ngồi xuống. Kế đó Canda bước lên xin thức ăn. Người đó bảo:

– Chẳng có thức ăn cho ngài đâu, hãy đi đi!

Vị kia đáp:

– Thưa đại phú gia, có một vị Bà-la-môn ngồi trong đó, ta đoán chắc hẳn có đọc kinh chúc phúc của Bà-la-môn nên ta cũng bước vào.

Người đó bảo:

– Chẳng có đọc kinh chúc phúc của Bà-la-môn nào cả. Đi ngay đi!

Lúc ấy, Canda nói:

– Thưa đại phú gia, xin nghe chừng này.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ:

127. Sợ khi khát nước hoặc thèm cơm,

Khiến bọn xan tham phải hoảng hồn,

Trong cõi đời này, đời kế nữa,

Bọn ngu kia phải trả hoàn toàn.

128. Vậy nên bố thí, tránh xan tham,

Rửa sạch tâm nhơ ác dục tràn,

Trong cõi đời sau, nhiều thiện nghiệp,

Sẽ là nơi trú, tuyệt an toàn.[24]

Sau khi nghe những lời như vậy xong, ông bảo:

– Thôi được, xin bước vào và ngài sẽ được ăn một chút.

Vị kia bước vào ngồi xuống với Thiên chủ Đế-thích. Sau khi đợi một lát nữa, Suriya bước lên và xin ăn bằng cách ngâm hai vần kệ:

129. Thật khó làm như các thiện nhân,

Phát ban như các vị đem ban,

Khó mà kẻ ác làm theo được,

Theo pháp Hiền nhân chẳng dễ dàng.[25]

130. Vậy thì khi phải giã từ trần,

Kẻ ác, người hiền bỏ thế gian,

Kẻ ác tái sanh vào địa ngục,

Người hiền sinh ở cõi thiên đàng.

Vị phú gia thấy chẳng cách gì thoát được chuyện ấy, đành bảo:

– Thôi được, xin bước vào và ngồi với các vị Bà-la-môn này, rồi ngài sẽ được ăn đôi chút.

Mātali, sau khi chờ đợi một lát nữa, cũng bước lên xin ăn và được bảo là không có thức ăn. Vừa mới nghe lời ấy được thốt lên, vị này liền ngâm vần kệ thứ bảy:

131. Có người ít của vẫn đem ban,

Có kẻ không cho dẫu của tràn,

Người ít của cho không thể kém,

Kẻ kia ban phát cả ngàn lần.[26]

Ông bảo vị này:

– Thôi được, xin vào ngồi xuống!

Sau khi đợi thêm một lát, Pañcasikha bước lên xin ăn. Ông đáp:

– Không có, hãy đi đi!

Ngài bảo:

– Ta đã đến thăm nhiều nhà rồi! Ở đây chắc phải có bữa cơm cúng dường các Bà-la-môn chứ, ta đoán thế.

Rồi ngài bắt đầu nói với ông và ngâm vần kệ thứ tám:

132. Dù sống chắt chiu, phải chánh chân,

Con nhiều, của ít vẫn đem phân,

Trăm ngàn người cúng ngàn đồng bạc,

Chẳng sánh quà con của tiện dân.[27]

Vị phú gia suy nghĩ lại khi nghe lời của Pañcasikha. Rồi ông ngâm vần kệ thứ chín để yêu cầu vị ấy giải thích giá trị ít oi của các vật bố thí kia:

133. Sao dồi dào lễ vật cao sang,

Giá trị không bằng vật chánh chân?

Ngàn bạc từ trăm ngàn phú hộ,

Sao không bằng vật của cùng bần?

Pañcasikha ngâm vần kệ kết thúc để đáp lời:

134. Nhiều người sống độc ác hung tàn,

Ðàn áp, giết rồi lại phát ban,

Thí vật chua cay, tàn nhẫn ấy,

Thua xa quà tặng với chân tâm,

Ngàn bạc từ trăm ngàn phú hộ,

Chẳng sánh quà con của tiện dân.

Nghe lời thuyết giáo của Pañcasikha xong, ông đáp:

– Thôi được, xin ngài vào nhà ngồi xuống, ngài sẽ được ăn đôi chút.

Rồi ông cũng vào ngồi với các vị kia. Sau đó, phú ông keo kiệt Biḷāri ra hiệu cho một tỳ nữ, bảo nàng:

– Hãy đem cho các Bà-la-môn đằng kia một đấu thóc còn vỏ!

Nàng ấy đem thóc đến gần các vị, bảo các vị rằng:

– Nhận thóc rồi đem nơi khác nấu mà ăn.

Các vị đáp:

– Ta chưa hề đụng đến thóc còn vỏ trấu.

– Thưa ông chủ, các vị ấy bảo chưa hề đụng đến thóc còn vỏ.

– Ðược, vậy thì cho các ông gạo đã xay!

Nàng ấy đem gạo đã xay và bảo các vị nhận. Các vị bảo:

– Chúng ta không nhận thứ gì chưa nấu chín.

– Vậy thì nấu cho họ một ít thức ăn của bò trong cái nồi và đem ra mời khách.

Năm vị cầm lên mỗi người một miếng và đặt vào mồm, song để nó dính vào cổ họng rồi trợn mắt lên. Các vị bất tỉnh nằm đó như chết rồi. Cô nữ tỳ thấy thế nghĩ chắc các vị đã chết, nàng hoảng sợ chạy đi báo phú ông:

– Thưa ông chủ, các Bà-la-môn này không nuốt nổi thức ăn của bò nên chết cả rồi!

Ông suy nghĩ: “Bây giờ dân chúng sẽ trách mắng ta, bảo gã độc ác này đem đống thức ăn của bò cho các Bà-la-môn yếu đuối và các vị ấy không nuốt nổi nên đã chết.” Sau đó, ông bảo cô nữ tỳ:

– Mau đi chôn cất hết thức ăn trong bát của họ, rồi nấu cho họ một ít món đủ thứ gạo ngon nhất.

Nàng tuân lời. Phú ông tìm một số khách qua lại trên con đường gần đó, khi đã tập hợp số người ấy lại với nhau, ông bảo:

– Ta đã cúng dường các Bà-la-môn này thức ăn giống như các thức ta vẫn ăn, nhưng các vị tham lam nuốt từng miếng lớn, vì ăn như vậy nên thức ăn mắc ở cổ họng và phải chết. Ta mời các ngài đến làm chứng cho ta vô tội.

Trước đám đông đang tụ tập như vậy, các vị Bà-la-môn đứng dậy, vừa bảo vừa nhìn vào đám đông:

– Các vị hãy xem sự dối trá của phú gia này! Ông bảo cho chúng ta thức ăn của ông đấy! Một đống tạp nhạp thức ăn của bò là những thứ ông đã đem cho chúng ta trước tiên, sau khi chúng ta nằm như chết, ông bảo người nhà nấu thức ăn này đây.

Rồi các vị ấy nhả ra từ miệng những thứ đã ăn, rồi chỉ những thứ đó. Ðám đông trách mắng vị phú gia, hét lớn:

– Ðồ ngu si, mù quáng! Ông đã phá bỏ phong tục gia đình ông. Ông đốt bố thí đường, ông đã nắm cổ các hành khất tống ra đường, giờ đây khi bố thí các Bà-la-môn yếu đuối này, ông lại cho một đống thức ăn cho bò. Ðến lúc ông sang thế giới bên kia, chắc ông sẽ mang hết tài sản trong nhà buộc thật chặt quanh cổ đấy!

Vào lúc ấy, Thiên chủ Đế-thích bảo đám đông:

– Các người có biết tài sản này là của ai chăng?

– Chúng tôi không biết.

Ngài bảo:

– Chắc các người có nghe nói một đại phú thương ở Ba-la-nại, ngày xưa sống ở thành này đã xây một bố thí đường và bố thí rất rộng rãi?

Họ đáp:

– Thưa có, chúng tôi có nghe nói về ông ấy.

Ngài bảo:

– Ta chính là vị thương gia đó, nhờ các vật tài thí ấy ta được làm Thiên chủ Đế-thích. con trai ta đã không phá vỡ truyền thống gia đình, trở thành thần Canda; con trai nó là Suriya và cháu trai của nó là Pañcasikha. Trong các vị này, đằng kia là Canda, đó là Suriya và đây là thần lái xe Mātali, còn đây nữa là Pañcasikha, nhạc thần, ngày xưa là cha của kẻ độc ác đằng kia ấy. Bố thí tạo công đức lớn như vậy, cho nên người có trí phải làm công đức.

Nói vậy xong, với ý định đánh tan các mối nghi hoặc của dân chúng đang tụ tập tại đó, các ngài bay lên không gian và đứng vững trên không. Nhờ thần lực của các ngài, hiện ra một đoàn tùy tùng đông đảo vây quanh. Toàn thân các ngài sáng rực lên, vì thế toàn thể kinh thành như ở trong đống lửa lớn. Sau đó, Thiên chủ Đế-thích bảo đám đông:

– Chúng ta đã rời thiên giới vinh quang để đến đây và chúng ta đến chỉ vì kẻ độc ác Biḷārikosiya này, người cuối cùng trong dòng họ, người tàn phá cả giống nòi của mình. Với lòng lân mẫn mà chúng ta đến, vì chúng ta biết ác nhân này đã phá bỏ truyền thống gia đình, đốt bố thí đường, nắm cổ hành khất tống ra ngoài, vi phạm phong tục của nhà ta và do từ bỏ bố thí, nó sẽ tái sanh vào địa ngục.

Ngài thuyết giáo cho đám đông như vậy xong lại nói về công hạnh của bố thí. Biḷārikosiya chắp hai tay thỉnh cầu và phát nguyện:

– Tâu Thiên chủ, từ nay trở đi, con xin nguyện sẽ không phá bỏ phong tục gia đình nữa mà con sẽ bố thí. Bắt đầu ngay hôm nay, con quyết chẳng bao giờ ăn mà không chia phần cho kẻ khác các vật dụng của riêng con, ngay cả nước uống và cả tăm xỉa răng con dùng cũng vậy.

Thiên chủ Đế-thích đã điều phục ông ta như vậy, làm cho ông biết xả thân và an trú ông trong ngũ giới rồi trở về cõi của ngài. Còn vị phú gia cứ bố thí suốt cả đời nên được tái sanh vào cõi trời Ba Mươi Ba.

***

Sau khi chấm dứt pháp thoại, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này ngày xưa không có tín tâm và không bao giờ cho ai chút gì cả, song Ta đã điều phục ông ta và dạy cho ông ta kết quả của bố thí và tâm lành đó không rời ông ngay cả khi ông ta đã sinh vào một đời khác.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ, Tỷ-kheo rộng lượng này là vị phú gia, Sāriputta (Xá-lợi-phất) là Canda, Moggallāna (Mục-kiền-liên) là Suriya, Kassapa (Ca-diếp) là Mātali, Ānanda (A-nan) là Pañcasikha và Ta là Thiên chủ Sakka.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.