Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§449. CHUYỆN NAM TỬ ĐEO VÒNG TAI (Maṭṭakuṇḍalijātaka) (J. IV. 59)

Sao giữa rừng này có cậu trai...

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một địa chủ có con trai mới chết.

Tại Xá-vệ, người ta truyền rằng thần chết đã cướp mất cậu con trai thân yêu của một người địa chủ thường đến cúng dường đức Phật. Quá sầu muộn vì con, người ấy chẳng rửa mặt mày ăn uống gì cả, cũng chẳng đi làm công việc của mình hay đi phụng sự đức Phật mà chỉ kêu khóc:

– Ôi! Con yêu quý! Con đã bỏ ta mà đi trước rồi!

Vào sáng sớm, khi bậc Ðạo sư quán chiếu trần gian, Ngài thấy cận y duyên để chứng đắc quả Dự lưu của người này. Vì vậy, ngày hôm sau, khi đã dẫn các đệ tử đi trong kinh thành Xá-vệ để khất thực và thọ dụng bữa cơm xong, Ngài bảo các đệ tử đi nơi khác, còn Ngài được Tôn giả Ānanda theo hầu đi đến nơi người này ở. Bọn gia nhân báo tin cho vị địa chủ biết bậc Ðạo sư đã đến, sau đó họ sắp đặt sàng tọa và mời bậc Ðạo sư ngồi xuống, rồi dẫn chủ nhà đến yết kiến bậc Ðạo sư.

Sau khi người ấy đảnh lễ Ngài xong và ngồi xuống một bên, bậc Ðạo sư nói bằng giọng dịu dàng đầy lòng từ mẫn:

– Này cư sĩ, có phải ông vẫn đang đau buồn vì đứa con trai duy nhất chăng?

Ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Bậc Ðạo sư nói:

– Này cư sĩ, đã lâu, lâu lắm rồi, những người có trí đi lang thang nặng trĩu đau buồn vì cái chết của đứa con trai, đã nghe được lời các bậc Hiền nhân và hiểu rõ rằng không gì có thể đem lại người đã mất nên không còn thấy buồn rầu nữa dù chỉ một chút thôi.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của người ấy, bậc Ðạo sư kể một chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta đang trị vì Ba-la-nại, cậu con trai của một vị Bà-la-môn rất giàu có khoảng mười lăm, mười sáu tuổi lâm bệnh nặng và khi chết được tái sanh vào cõi chư thiên. Từ lúc con trai chết, người Bà-la-môn thường đi đến nghĩa địa và than khóc rồi đi quanh đống tro tàn, bỏ các phận sự dở dang, ông cứ lang thang với tâm tư nặng trĩu u sầu.

Một vị thiên tử khi đi dạo thấy vậy liền lập mưu để an ủi khổ đau của người kia. Chàng đến nghĩa địa lúc người này đang sầu bi, giả dạng làm chính con trai vị ấy và tô điểm đủ mọi thứ trang sức, chàng đứng một bên vừa ôm đầu trong hai tay vừa than khóc kêu gào. Vị Bà-la-môn nghe tiếng động và nhìn lên, lòng tràn đầy yêu thương đối với con trai mình liền dừng lại trước chàng và nói:

– Này con yêu quý, tại sao con đứng khóc giữa nghĩa địa này?

Ông đặt câu hỏi qua vần kệ sau:

115. Sao giữa rừng này có cậu trai,

Tràng hoa, vòng ngọc mỗi bên tai,

Chiên-đàn sực nức, giơ tay nọ,

Sầu khổ gì rơi lệ vắn dài?

Lúc ấy, chàng trai kể chuyện mình bằng cách ngâm vần kệ thứ hai:

116. Vàng ròng đúc chiếu rực hào quang,

Xe ấy con thường vẫn ngã lưng,

Ðôi bánh này con tìm chẳng thấy,

Chắc con buồn khổ đến lìa trần.

Vị Bà-la-môn nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

117. Bằng vàng, dát ngọc, loại gì nào,

Bằng bạc, hay đồng, trí nghĩ sao?

Cứ nói ra lời, xe được đóng,

Ta tìm đôi bánh sẽ thêm vào.

Sau khi nghe vần kệ do chàng trai ngâm xong, bậc Đạo sư lúc đã là bậc Giác Ngộ ngâm câu đầu của một vần kệ, còn phần lại là của chàng trai:

118. Chàng trai đã đáp Bà-la-môn:

Nhật, nguyệt kia là hai đệ huynh,

Xe của con bằng vàng rực rỡ,

Nhờ đôi bánh ấy chiếu muôn phương.

Lập tức vị kia tiếp:

119. Chàng thật ngu vì việc đã làm,

Cầu xin chuyện chẳng có ai ham,

Bởi vì ta chắc chàng nên chết,

Nhật, nguyệt, đòi sao được hỡi chàng?

Thế rồi:

120. Trước mắt, trời, trăng, lặn, mọc dần,

Sắc màu, đường hướng vẫn không ngừng,

Còn ai thấy được hồn người chết,

Vậy kẻ nào ngu lúc khóc than?

Chàng trai nói vậy xong, vị Bà-la-môn tỉnh ngộ liền ngâm kệ:

121. Giữa ta, hai kẻ khóc than thân,

Chàng thật khôn, ta thật độn đần,

Quả đúng, đòi hồn người đã chết,

Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?

Lúc ấy, vị Bà-la-môn được an ủi nhờ lời lẽ của chàng trai kia liền cám ơn chàng bằng cách ngâm các vần kệ cuối cùng:

122. Lòng ta thiêu đốt nóng bừng,

Như khi người đổ dầu trong lửa đào,

Chàng đà đem nước lạnh vào,

Và chàng dập tắt khát khao, tủi buồn.[22]

123. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,

Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,

Chàng đà an ủi giải khuây,

Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.

124. Tên vừa nhổ, khỏi đau ngay,

Giữ tâm thanh thản, ta rày khinh an,

Nghe lời chân thật hỡi chàng,

Ta không còn phải khóc than muộn phiền.

Lúc ấy, chàng trai bảo:

– Này ngài Bà-la-môn, ta chính là người con trai mà ngài đang thương khóc, ta đã được tái sanh vào cõi chư thiên. Vậy từ đây xin đừng sầu muộn vì ta nữa mà hãy bố thí, giữ gìn giới đức và hành trì ngày trai giới!

Với lời khuyến giáo này, chàng trở về cõi của mình. Còn vị Bà-la-môn tuân theo lời khuyên của chàng nên sau khi làm nhiều công đức bố thí cùng các thiện sự khác, ông mạng chung và tái sanh vào cõi chư thiên.

***

Sau khi chấm dứt pháp thoại này, bậc Ðạo sư tuyên thuyết các sự thật. Bấy giờ, vào lúc kết thúc các sự thật, người địa chủ đã được an trú vào Sơ quả (Dự lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Ta chính là vị thiên tử đã nói lời thuyết giáo này.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.