Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§440. CHUYỆN HẮC HIỀN GIẢ (Kaṇhajātaka)[4] (J. IV. 7)
Ðằng kia, ngắm kẻ sắc đen tuyền...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) trong vườn Nigrodha (Ni-câu-luật) về một nụ cười.
Thời ấy, chuyện kể rằng bậc Ðạo sư đang du hành cùng Tăng chúng trong vườn Nigrodha, lúc chiều xuống tại một chốn kia, Ngài mỉm một nụ cười. Trưởng lão Ānanda nghĩ: “Nguyên do gì, lý do gì khiến đức Thế Tôn mỉm cười? Ðức Như Lai mỉm cười không phải là không có duyên cớ. Vậy ta muốn hỏi Ngài.”
Thế là Tôn giả cúi đầu đảnh lễ cung kính hỏi về nụ cười kia, bậc Ðạo sư bảo:
– Ngày xưa, này Ānanda, có một bậc Hiền trí tên là Kaṇha đã sống ở nơi đây, chuyên tâm thiền tịnh và lạc trú trong thiền định nên nhờ uy lực công đức của ngài mà cung của Thiên chủ Đế-thích (Sakka) phải rúng động.
Song vì câu giải thích về nụ cười kia chưa được rõ ràng nên theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, đức Phật kể một chuyện quá khứ.
***
Một thuở nọ, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, có một vị Bà-la-môn không có con cái, nhưng của cải lên đến tám mươi triệu đồng, vị này phát nguyện giữ giới đức và cầu tự. Trong bụng bà vợ của vị Bà-la-môn này đang mang thai Bồ-tát. Do màu da đen của ngài, vào ngày lễ đặt tên, cha mẹ đặt tên cho ngài là Kaṇha (Hắc).
Ðến năm mười sáu tuổi, ngài đầy vẻ uy nghi như một bức tượng bằng ngọc quý, được phụ thân đưa đến học ở Takkasilā. Nơi đây, ngài được dạy đầy đủ các môn văn học nghệ thuật xong rồi trở về nhà. Sau đó, cha ngài lại cưới cho ngài một người vợ xứng đôi vừa lứa. Dần dần theo thời gian, ngài hưởng trọn gia sản của song thân.
Bấy giờ, vào một ngày kia, sau khi kiểm tra các kho báu, đang lúc ngồi trên một bảo tòa lộng lẫy, ngài cầm trên tay một cái đĩa bằng vàng, đọc được trên đĩa những hàng chữ do các bậc tiền nhân của ngài ghi lại, rất nhiều tài sản do vị này kiếm được, rất nhiều tiền bạc do vị kia làm ra, v.v... Ngài nghĩ thầm: “Những vị tạo ra vàng bạc này bây giờ không còn nữa, song vàng bạc vẫn còn đó, không ai có thể mang chúng theo khi ra đi khỏi cuộc sống. Ta không thể buộc vàng bạc thành một bó rồi mang theo mình qua thế giới khác. Của cải liên hệ đến năm ác dục, còn phân phát bố thí của cải này là việc tốt đẹp hơn. Thân xác phù du này liên hệ với nhiều bệnh tật, còn tỏ lòng cung kính và nhân từ với những vị đức hạnh đem nhiều lợi lạc hơn. Cuộc đời tạm bợ phù phiếm này chỉ thoáng qua trong chốc lát, còn tinh tấn hành trì thiền định là phần cao cả hơn. Vậy thì những vàng bạc phù phiếm này ta sẽ đem bố thí hết, vì làm như thế ta sẽ thọ hưởng phước đức nhiều hơn.”
Thế là ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, sau khi xin đức vua đồng ý, ngài bố thí rất hào phóng. Ðến ngày thứ bảy, thấy vàng bạc vẫn không suy giảm, ngài suy nghĩ: “Vàng bạc này có nghĩa gì đối với ta? Trong khi ta chưa bị tuổi già chế ngự, ta muốn ngay bây giờ phát nguyện xuất gia tu hành, ta quyết tu tập các thắng trí và các thiền chứng, ta quyết tái sanh lên cõi Phạm thiên.” Thế là ngài ra lệnh mở các cửa lớn trong nhà ra, rồi bảo gia nhân lấy của cải đem bố thí rộng rãi, tránh xa nó như một vật bất tịnh. Ngài đoạn trừ các đối tượng của tham dục, rời khỏi kinh thành đầy tiếng khóc than của dân chúng để vào tận vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ngài sống theo lối độc cư và khi đi tìm một chốn an lạc để trú thân, ngài nhìn thấy một khu đất, ngài tới nơi này rồi quyết định ở lại, chọn cây bầu làm nơi ăn chốn ở, sống dưới gốc cây bầu ấy. Không bao giờ cư trú tại bìa làng, ngài trở thành một người sống trong rừng; không bao giờ ngài dựng chòi lá mà chỉ ở dưới gốc cây, ở ngoài trời, thường an tọa, hoặc nếu ngài muốn nằm thì chỉ nằm trên mặt đất.
Ngài không dùng cái chày mà chỉ dùng hàm răng nghiền nát thức ăn, chỉ ăn những thức ăn không nấu bằng củi lửa, không bao giờ một thứ hạt còn vỏ nào lọt vào miệng ngài, ngài chỉ ăn ngày một lần và chỉ ngồi ăn một lần. Trên mặt đất, dường như ngài đã hòa cùng với tứ đại làm một, ngài sống hành trì giới luật của bậc xuất gia khổ hạnh. Trong tiền thân ấy, như ta được biết, Bồ-tát rất thiểu dục tri túc.
Vì vậy, chẳng bao lâu, ngài đạt các thắng trí (năm thần thông) và các thiền chứng (tám cấp thiền), ngài sống nơi ấy trong hỷ lạc của thiền định. Dù có trái cây hay không, ngài cũng không đi nơi nào khác; khi cây có trái, ngài ăn trái; có hoa, ăn hoa; có lá, ăn lá; hết lá, ăn vỏ cây. Một buổi sáng nọ, ngài hái trái chín của cây ấy, do không tham lam, ngài không đứng dậy đi hái ở chỗ nào khác. Ngồi tại chỗ, ngài dang tay ra thu lượm các trái cây trong tầm tay, ngài cứ ăn các trái cây có được, không phân biệt là ngon hay dở.
Ngài vô cùng tri túc và do công năng giới đức của ngài mà chiếc ngai hoàng thạch của Thiên chủ Đế-thích nóng rực lên (tương truyền chiếc ngai vàng này nóng lên khi Thiên chủ Đế-thích sắp mạng chung, hoặc lúc phước đức của ngài đã hết và kết thúc, hay khi có một vị Ðại sĩ cầu nguyện, hay do công năng đức độ của các Sa-môn, Bà-la-môn đầy uy lực).
Lúc ấy, Thiên chủ Đế-thích suy nghĩ: “Kẻ nào muốn làm ta phải rời khỏi ngai đây?” Vừa nhìn quanh, ngài thấy ở một nơi kia trong rừng sâu, bậc Hiền nhân Kaṇha đang sống nhờ nhặt trái rừng. Ngài biết rằng đó là một bậc Trí nhân hành trì khổ hạnh cao độ, tất cả các căn đều được điều phục, ngài suy nghĩ: “Ta muốn đi đến gặp vị ấy. Ta muốn bảo vị ấy thuyết pháp thật cao giọng, sau khi nghe lời giảng pháp đem lại an lạc này, ta sẽ làm vị ấy hoan hỷ với một điều ước và sẽ làm cho cây của vị ấy sinh quả không ngừng rồi ta mới trở về đây.”
Sau đó, nhờ thần thông lực, Thiên chủ vụt xuống trần gian, đứng ngay dưới gốc cây sau lưng bậc Hiền nhân. Ngài ngâm vần kệ đầu tiên để thử xem bậc Hiền trí kia có bực tức khi nghe nhắc đến vẻ xấu xí của mình chăng:
11. Ðằng kia, ngắm kẻ sắc đen tuyền,
Sống ở nơi này cũng đất đen,
Miếng thịt đang ăn đen xám xịt,
Tâm ta chẳng thích dáng người hiền.
Hiền nhân Kaṇha nghe ngài nói vậy, hỏi:
– Ai nói với ta đấy?
Và nhờ thần thông lực, ngài nhận ra đó là Thiên chủ Đế-thích nên vẫn không cần quay đầu lại, ngài đáp vần kệ thứ hai:
12. Dù toàn sắc đen, hỡi Ngọc hoàng,
Tâm ta chân chính Bà-la-môn,
Màu da chẳng lỗi, nhưng làm ác,
Khiến kẻ phàm nhân đen tối luôn.
Và rồi sau đó, khi đã giải thích nhiều loại lỗi lầm và chê trách những lỗi lầm đã biến con người thành những kẻ đen tối cùng ca ngợi công đức, ngài thuyết giáo cho Thiên chủ Đế-thích chẳng khác nào ngài làm mặt trăng mọc lên giữa bầu trời. Thiên chủ Đế-thích nghe bài thuyết pháp, lòng vô cùng hoan hỷ liền ban tặng bậc Ðại sĩ một điều ước và ngâm vần kệ thứ ba:
13. Nói năng khôn khéo, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng luôn,
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn!
Nghe vậy, bậc Ðại sĩ nghĩ thầm: “Ta biết thế nào rồi. Vị này muốn thử ta, xem ta có giận dữ khi nói đến vẻ xấu xí của ta không nên ngài chê bai màu da của ta, thức ăn chốn ở của ta. Khi thấy rằng ta không giận thì ngài vui vẻ, ban cho ta một điều ước, chắc ngài tưởng ta hành trì lối sống này vì ước mong có thần lực của Thiên chủ Đế-thích hay Phạm thiên. Vậy nay để làm ngài tin tưởng, ta sẽ chọn bốn điều ước: Ta ước được an tịnh, không sân hận đối với kẻ xung quanh ta, không tham cảnh vinh quang của các vị xung quanh ta, hay không thèm muốn dục tình đối với các vị xung quanh ta.”
Suy nghĩ như vậy xong, để giải quyết mối nghi hoặc của Thiên chủ, bậc Hiền trí ngâm vần kệ thứ tư chọn bốn điều ước này:
14. Thiên chủ Đế-thích của thế gian,
Chọn điều hạnh phúc, lệnh ngài ban,
Ta mong thoát khỏi lòng căm phẫn,
Sân hận, tiêu trừ mọi dục, tham,
Tất cả bốn điều này hạnh phúc,
Ta thường mơ ước tận tâm can.
Lúc ấy, Thiên chủ Đế-thích suy nghĩ: “Hiền giả Kaṇha khi chọn điều ước đã chọn bốn điều an lạc, không lỗi lầm. Bây giờ, ta phải hỏi ngài về thiện ác liên hệ bốn điều này.” Rồi ngài hỏi bằng cách ngâm vần kệ thứ năm:
15. Trong căm phẫn, dục với tham, sân,
Này hãy nói đi, hỡi Đạo nhân,
Ngài thấy điều gì là bất thiện,
Trả lời ta nhé, hãy làm ơn?
– Vậy hãy nghe đây!
Bậc Ðại sĩ đáp lại và cảm khái ngâm bốn vần kệ này:
16. Căm phẫn được nuôi bởi bất kham,
Phát sinh từ nhỏ lớn lên dần,
Nên lòng tràn ngập niềm đau xót,
Vì thế ta không muốn phẫn căm.
17. Cứ vậy thông thường với ác nhân,
Trước tiên lời nói chạm vào thân,
Kế đến đấm đá, rồi cây gậy,
Sau hết lòe ra mũi kiếm trần,
Khi có ác tâm thường phẫn nộ,
Nên lòng ta chẳng muốn hờn sân.
18. Khi người thúc giục bởi tham lam,
Lừa đảo tăng dần với dối gian,
Vội đuổi theo tiền tài cướp bóc,
Vậy nên ta chẳng muốn tâm tham.
19. Trói chặt xiềng gông bởi dục tình,
Vẫn thường phát triển nảy sinh nhanh,
Trong tim, làm xót xa đau nhức,
Ái dục, ta không muốn phận mình.
Khi các câu hỏi đã được giải thích xong, Thiên chủ Đế-thích bảo:
– Thưa Hiền giả Kaṇha, nhờ ngài, các câu hỏi của ta đã được giải đáp êm đẹp với trí tuệ của một bậc Giác ngộ. Ta rất hoan hỷ vì ngài. Bây giờ, xin ngài chọn một điều ước khác nữa.
Rồi Thiên chủ ngâm vần kệ thứ mười:
20. Nói năng chân chính, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn!
Lập tức Bồ-tát ngâm kệ:
21. Thiên chủ Đế-thích của trần gian,
Ngài bảo cho ta một đặc ân,
Mong chốn núi rừng ta ẩn náu,
Nơi nào ta trú ngụ đơn thân,
Bệnh không làm hại niềm an tịnh,
Hoặc phá niềm thiền lạc vỡ tan.
Nghe vậy, Thiên chủ Đế-thích suy nghĩ: “Khi chọn điều ước, Hiền giả Kaṇha không chọn điều gì liên hệ đến thức ăn mà những gì ngài chọn đều liên quan đến đời sống tu hành.” Tâm càng hoan hỷ hơn nữa, Thiên chủ lại cho thêm một điều ước khác và ngâm kệ:
22. Nói năng thật khéo, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn!
Và Bồ-tát khi nói lên điều ước của ngài, đã thuyết pháp trong vần kệ cuối:
23. Thiên chủ Sakka của trần gian,
Ngài bảo cho ta một đặc ân,
Xin chẳng sinh linh nào bị hại,
Vì ta, dù khẩu, ý hay thân.
Nơi nào cũng vậy, này Thiên chủ,
Lời nguyện này ta vẫn ước mong.
Như vậy, trong sáu trường hợp bậc Ðại sĩ lựa điều ước, ngài đều chỉ chọn những gì liên quan đến đời sống viễn ly. Ngài hiểu rõ thân người phải có bệnh và Thiên chủ Đế-thích không thể trừ diệt căn bệnh của thân nghiệp cũng không thể rửa sạch cho nhân thế trong ba cửa thân, khẩu, ý. Mặc dù vậy, ngài vẫn chọn điều ước ấy với mục đích thuyết pháp cho vị Thiên chủ. Sau đó, Thiên chủ Đế-thích làm cho cây ấy sinh quả quanh năm, vừa chắp tay lên trán đảnh lễ ngài vừa bảo:
– Xin Hiền giả an trú ở đây không bệnh tật!
Rồi ngài đi về cõi của ngài. Còn Bồ-tát không gián đoạn thiền định nên về sau được sinh lên Phạm thiên giới.
***
Sau khi chấm dứt pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:
– Này Ānanda, đây là nơi Ta đã an trú ngày xưa.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Thiên chủ Đế-thích và Hiền giả Kaṇha chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.