Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

DẪN LUẬN CHUYỆN TIỀN THÂN

 

Chuyện Tiền thân (Jātaka), còn được gọi là Bổn sanh (本生), là tuyển tập thứ 10 trong Kinh Tiểu bộ gồm 16 tập thuộc Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam. Chuyện Tiền thân khơi dậy cảm xúc tích cực và hiền thiện trong tâm hồn của người nghe cũng như người đọc, đồng thời xây dựng, củng cố niềm tin nơi Phật pháp và làm cho những thông điệp về từ bi và trí tuệ của Phật giáo lan xa tỏa rộng. Mặt khác, Chuyện Tiền thân còn là nguồn tư liệu giá trị về đời sống kinh tế, chính trị, tập quán, văn hóa, tôn giáo và xãhội của đất nước và con người Ấn Độ thời cổ đại.1

I. NHỮNG NÉT LỚN

1. Từ nguyên
Từ “Bổn sanh” hay “Tiền thân” có gốc Pāli và Sanskrit làJātaka. Ngữ căn “Jāta” có nghĩa là “đã được sanh ra” + “ka” có nghĩa là “liên quan đến việc đã được sanh ra.” Jātaka có ba nghĩa: (1) “Câu chuyện” được tìm thấy trong những tập sách có trước thời Phật. Trong phạm vi ngữ nghĩa này, Jātaka là câu chuyện kể lại kiếp sống trong quá khứ của đức Phật, một mẫu người hiền trí của đời trước; (2) Câu chuyện của kiếp quá khứ, trong những kiếp đó, tiền thân của đức Phật có thể trong hình hài của bất kỳ một sinh thể nào, từ con người cho đến con nai hay con chó rừng, v.v… Theo nghĩa này, các câu chuyện tiền thân được tìm thấy không nhiều trong 4 bộ Nikāya đầu tiên, nhưng lại có mặt nhiều ở Bharhut, một di tích cổ kính hàng đầu của Phật giáo có niên đại vào khoảng thế kỷ III TTL, và có mặt hầu hết trong mỗi câu chuyện của tập Jātaka; (3) Jātaka là tựa đề của tuyển tập thứ 10 trong Tiểu bộ gồm 547 câu chuyện.2 Trong các thể loại văn học, Jātaka là một trong 9 thể loại ấy3 và được đức Phật thỉnh thoảng sử dụng trong quá trình giáo hóa. Về mặt từ vựng, Ananda Salgadu Kulasuriya có một bài nghiên cứu chuyên sâu hơn về thuật ngữ Jātaka.4

2. Cấu trúc của một câu chuyện tiền thân
TW. Rhys Davids cho rằng cấu trúc của một Chuyện Tiền thân gồm có 4 mục: “Trước hết chúng ta cómột khung ngoại vi gồm (1) một đoạn giới thiệu và (2) một đoạn nhận diện tiền thân. Bên trong khung ngoại vi chúng ta có (3) câu chuyện tiền thân đơn thuần “câu chuyện của quá khứ” như cách mà nó được gọi trong văn học Pāli. Câu chuyện đó, chúng ta lại có trong tập Jātaka đang có mặt trong Chánh tạng, (4) hạt nhân của toàn thể, khổ kệ tụng.”5

Lại có cách phân loại khác, cho rằng cấu trúc của một Chuyện Tiền thân hoàn chỉnh gồm 5 mục, hay 6 mục: (1) Câu chuyện hiện tại (Paccuppannavatthu) là duyên để đức Phật kể lại chuyện kiếp trước; (2) Câu chuyện quá khứ (Atītavatthu) được đức Phật kể lại; (3) Kệ tụng (Gāthā) là một thành tố của câu chuyện quá khứ nhưng cũng thường xuyên là thành tố của câu chuyện hiện tại; (4) Chú giải (Veyyākaraṇa) làm sáng tỏ hơn ý nghĩa của những từ ngữ trong mục kệ tụng; (5) Mối liên quan (Samodhāna) thường được gọi là mục nhận diện tiền thân,6 trong đó đức Phật nói về những nhân vật trong câu chuyện hiện tại đã từng là nhân vật nào trong câu chuyện quá khứ;7 (6) Tựa đề.8

Tuy có các cách phân chia như vậy nhưng khuôn mẫu 4 mục gồm 2 mục ngoại vi và 2 mục cốt lõi mà T. W. Rhys Davids chủ trương đã phản ánh đúng thực tế và có tính thuyết phục cao.

3. Cấu trúc của tuyển tập Jātaka
Nhìn tổng thể, tập Jātaka tiếng Việt hiện tại làmột bộ sưu tập gồm 547 câu chuyện tiền thân phân bố thành 22 chương hay tiểu tập (nipāta) với 6.644 khổ kệ.9 Nguyên tắc phân bố mang tính số học, chương I có 150 câu chuyện tiền thân, trong đó mỗi câu chuyện có 1 khổ kệ. Chương II có 100 câu chuyện, mỗi câu chuyện có 2 khổ kệ. Cũng vậy, chương III có 50 câu chuyện, mỗi chuyện có 3 khổ kệ… cho đến chương 22, theo nguyên tắc sẽ hàm chứa những câu chuyện có 22 khổ kệ. Chương số hiệu lớn dần thì số lượng chuyện tiền thân trong chương ấy càng nhỏ dần. Tuy phần lớn sự phân bố tuân theo nguyên tắc nhưng vẫn có độ linh hoạt nhất định. Ví dụ như chương VI, câu chuyện ít nhất có 6 khổ kệ và nhiều nhất 18 khổ kệ; chương XXI tuy là chương 80 kệ nhưng số khổ kệ dao động từ 81-124. Chương XIV gọi là “Tạp kệ”, có câu chuyện ít kệ nhất là 16 và nhiều nhất là 48 khổ kệ. Riêng chương XXII có 10 câu chuyện, chuyện ít nhất có 122 khổ kệ và nhiều nhất có 786 khổ kệ. Trong một số trường hợp thì khổ kệ được gắn vào câu chuyện tiền thân theo cấu trúc chung gồm 4 mục mà không phải là thành tố hữu cơ mật thiết với mạch lạc của câu chuyện.10

4. Các phiên bản của tuyển tập Jātaka
Con số 55011 chuyện tiền thân chỉ là phiên bản chính của bộ sưu tập. Có khoảng thời gian tập Jātaka ấy thất lạc 3 câu chuyện nên còn lại 547. Cặn kẽ hơn, con số 547 cũng không phải là con số chính xác nên Maurice Winternitz đã cẩn thận khi dùng cụm từ “trên 500 Jātaka”, bởi vì có trường hợp, nhiều câu chuyện được ghép lại với nhau, có trường hợp chỉ là những dẫn chiếu đến các câu chuyện tiền thân sau đó, cũng có trường hợp cùng một câu chuyện nhưng xuất hiện nhiều lần dưới hình thức dị bản.12 Theo Chú giải Luật tạng của Theravāda, Ngài Buddhaghosa (Phật Âm) trong phần mở đầu của Pārājikakaṇḍa-aṭṭhakathā (paṭhamo bhāgo) có nói rằng: “Apaṇṇakajātakādīni paññāsādhikāni pañca jātakasatāni jātakanti veditabbaṃ” nghĩa là nói chính xác về tập Jātaka thì có khoảng 505 Jātaka hoặc có mối liên hệ với Jātaka được biết đến.

Ngoài phiên bản 500 câu chuyện tiền thân, còn có nhiều phiên bản khác,13 như 560 hay 56514 câu chuyện cùng với những thông tin liên quan. Phiên bản có thể xem là nhỏ nhất của Jātaka có mặt ở Sài Gòn15 năm 1954 tựa là La Version Mône du Nārada Jātaka (Bản dịch tiếng Mône về chuyện tiền thân Nārada) do École Française d'Extrême Orient xuất bản.16 Từ lâu Jātaka đã trở thành một hình thái, bộ loại hay thể loại văn học riêng với những quy phạm và đặc sắc riêng có. Ngoài bản Jātaka này, chúng ta còn có một bộ sưu tập Jātaka nổi trội tên là Jātakamāla (Bổn sanh man, 本生蔓), nghĩa là Tràng hoa những câu chuyện tiền thân với 34 câu chuyện; một phiên bản khác có 35 câu chuyện và một phiên bản lớn hơn có 100 câu chuyện.17

Phiên bản 100 câu chuyện có từ câu chuyện kể về hành trạng của một vị Đạo sư thuở xa xưa tên là Āryaśūra (Thánh Dũng, 聖勇) do sử gia Tāranātha18 kể lại. Thuở ấy, những câu chuyện tiền thân được lưu truyền bằng nhiều cách như nghe người khác kể, ghi nhớ, tích tập trong ký ức và thuật lại. Tất cả những phương thức ấy đều thuần là truyền khẩu. Truyền thống Jātaka chữ viết bắt đầu bằng câu chuyện Đạo sư Āryaśūra lập dự án cho công trình chọn lọc và viết xuống thành văn tự những câu chuyện tiền thân để tôn vinh mười Ba-la-mật của đức Phật. Mỗi một Ba-la-mật được tôn vinh bằng mười câu chuyện, như vậy tổng số sẽ là 100 câu chuyện. Tiếc thay, khi viết xong câu chuyện thứ 34 thì Āryaśūra mệnh chung.

Một thần tích kể rằng trong thời gian viết Jātakamāla, Āryaśūra quán chiếu về hạnh bố thí của vị Bồ-tát, cụ thể là vị Bồ-tát Thái tử Mahā Satva (Ma-ha Tát-đỏa, 摩呵蕯埵) đã hy hiến thân thể của mình cho bầy hổ đói. Khi quán chiếu như vậy, Āryaśūra khởi phát tâm cao thượng hướng đến Ba-la-mật và nhận ra rằng hạnh bố thí như vậy không quá khó, ngay bản thân mình cũng có thể thực hiện được. Lúc ấy, Āryaśūra thấy một con hổ mẹ và bầy con đang đói lã, sắp chết. Thoạt đầu, Āryaśūra chưa quyết định hy hiến cho đến khi phát khởi độ thâm tín viên mãn và mạnh mẽ nơi đức Phật, khi ấy cũng là lúc Ngài đang sử dụng dòng máu của bản thân để viết xuống những câu chuyện tiền thân. Việc dùng máu làm mực đã là nếp quen của mỗi ngày, song giờ đây, Āryaśūra cũng dùng chính dòng máu của bản thân ấy nhưng không phải để viết tiếp mà là để bố thí cho những con hổ đói khát. Lúc ấy, những con hổ tỉnh dần và hồi phục sức lực thì cũng chính là lúc Āryaśūra hy sinh thân thể. Tập Jātakamāla vì vậy mà kết thúc với 34 câu chuyện thay vì 100 câu chuyện như dự án ban đầu của Āryaśūra.19

Nơi phát tích của những câu chuyện tiền thân đầu tiên là Bắc Ấn, cụ thể hơn là ở một xứ sở có tên là Madhyadesa (Quốc độ trung tâm),20 và từ đó trải rộng tầm ảnh hưởng rộng khắp nhiều châu lục, liên tục bổ sung từ nhiều nguồn văn học qua việc giao thoa chia sẻ với và được chia sẻ từ các nền văn hóa khác nhau. Các học giả hàng đầu đều nhận định rằng hầu hết những câu chuyện tiền thân đều có nguồn gốc từ văn học dân gian lưu hành ở Bắc Ấn.21 Mặt khác, bộ sưu tập Jātaka này không bao hàm hết những câu chuyện tiền thân đang hiện hữu ngay trong thời kỳ nguyên sơ của Phật giáo Bắc Ấn.22 Trên thực tế, bản Jātaka không bao gồm những câu chuyện tiền thân được ghi lại trong Trường bộ như Kinh Cứu-la-đàn-đầu (số 5), Kinh Đại Thiện Kiến vương (số 17) và trong Trung bộ như Kinh Ghaṭikāra (số 81), Kinh Makhādeva (số 83).

Từ lúc phát tích đến lúc định hình vững chắc và cho ra đời những bộ sưu tập như chúng ta thấy ngày nay là một quá trình kéo dài hàng ngàn năm. Xuất phát là những câu chuyện đầu tiên có mặt ngay thời đức Phật còn tại thế, sau đó lànhững câu chuyện xuất hiện trong hình thức phù điêu và những dòng chữ được chạm khắc vào đá ở di tích Bharhut và Sanchi có niên đại vào thế kỷ III TTL, cuối cùng là số lượng lớn những câu chuyện nằm trong những bộ sưu tập, cụ thể là bộ sưu tập vào thế kỷ V tức bản Jātaka này.23

Công trình kéo dài cả ngàn năm như vậy được thực hiện bởi những người học thuộc lòng và kể lại, những người phiên tả, những tác gia, những nhà sưu tầm, biên tập, sao chép, dịch thuật... thuộc nhiều thế hệ, có khoảng cách khác biệt rất xa với nhau về thời đại, bối cảnh đời sống và về nhiều phương diện khác. Những người tham gia góp phần vào công trình này thuộc nhiều thành phần khác nhau, có cả tu sĩ lẫn cư sĩ, sống và làm việc trong các môi trường địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, tín ngưỡng và xãhội khác nhau. Những khác biệt ấy đã để lại dấu vết trong bộ sưu tập được đưa vào Chánh tạng, đó là tập Chuyện Tiền thân mà chúng ta đang có.

5. Các thể loại câu chuyện tiền thân trong tuyển tập Jātaka
Trước hết chúng ta cần nhận thức rằng những đoạn văn vần trong Chuyện Tiền thân cổ kính hơn so với những thiên sử thi hay thể loại trường ca cùng loại. Tuy nhiên, sự cẩn trọng trong nghiên cứu cho biết rằng chúng ta không thể xác quyết độ cổ kính của những câu chuyện ngang qua hình thái câu chữ có khớp với thời gian thật trong lịch sử hay không.24 Chuyện Tiền thân với hơn 500 câu chuyện chứa đựng trong đó tất cả hình thái, bộ loại, thể thức của dòng thơ ca. Maurice Winternitz cho rằng có 5 thể loại 25 như sau:

1) Dạng phổ quát là một mạch chuyện dưới dạng văn xuôi, thỉnh thoảng được ngắt quãng bằng những đoạn văn vần. Có khi mạch chuyện được dừng lại để đan xen vào một bài thơ ngụ ngôn hay những khổ kệ kể chuyện đời xưa. Cũng có khi mạch chuyện được điểm xuyết bởi một câu nói đạo lý thâm trầm. Thế nên, thơ và văn xuôi, chuyện đang diễn ra và chuyện đã diễn ra đan bện và tổng hòa vào nhau tạo thành một thực thể thẩm mỹ vừa cổ kính vừa thanh tân.

2) Dạng kịch thơ, như Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta (số§514)26 với tựa đề gốc là “Ái hậu mắt nhung đẹp tuyệt trần” có đoạn đàm thoại bằng thơ giữa nhà Vua và Hoàng hậu Subhadda như sau:

Khi nghe tin nàng bị bệnh, Vua vội vào hậu cung ngồi bên vương sàng vuốt nhẹ lưng nàng và ngâm vần kệ đầu tiên:

Ái hậu mắt nhung đẹp tuyệt trần,
Nàng xanh xao quá, dáng đau buồn,
Như tràng hoa dưới chân giày xéo,
Vì cớ sao n
ng héo a dần?

Nghe lời này, nàng liền đáp bằng vần kệ thứ hai:

Dường như chuyện thấy ở trong mơ,
Thần thiếp hằng mong mỏi thiết tha,
Mộng ước hão huyền e khó đạt,
Cho nên lòng thiếp mãi buồn lo.

Vua nghe thế lại ngâm vần kệ nữa:

Những lạc thú nào ở thế gian,
Con người khao khát tận tâm can,
Điều gì mong trẫm đem ban tặng,
Hãy nói trẫm nghe ư
ớc nguyện nng!

Ở thể thức kịch thơ, người đọc cần phân biệt hai loại thơ kệ. Một, những dòng thơ đàm thoại như vừa nêu ở trên. Hai, những dòng thơ của người kể chuyện. Người kể chuyện ở đây chính là đức Phật, danh xưng trong câu chuyện là bậc Đạo sư. Trong câu chuyện trên, bậc Đạo sư nói lên bài kệ về cái hố và mũi tên mà con người giăng ra để chờ bắt con voi trắng như sau:

Che hố trước tiên đậy ván dày,
Bước vào, cung nắm ở trong tay,
Vừa khi bạch tượng đi qua đó,
Kẻ ác cho tên d
ữ vt bay.

3) Dạng chuyện dài bắt đầu bằng thể văn xuôi và nối theo bằng thơ, cũng có khi mạch chuyện theo thể văn xuôi được ngắt nhịp bằng những khổ thơ kể chuyện hay những khổ thơ đàm thoại; trong trường hợp như vậy thì mạch văn xuôi không thể không có. Tuy nhiên, mạch văn xuôi trong Chuyện Tiền thân thuộc dạng thứ ba này27 không phải nguyên gốc xa xưa mà vốn là đã được viết thêm và hiệu đính nhiều lần với những đoạn chú giải được chèn vào.

4) Dạng chùm những câu châm ngôn vềmột chủ đề nào đó.

5) Dạng trường ca hay một phân khúc của trường ca. Trong hai dạng 4 và 5, Maurice Winternitz cho rằng phần văn xuôi hầu hết là những chú giải thừa thải và nhạt nhẽo.28 Người viết lại cho rằng, nhiều câu chuyện văn xuôi cũng rất thú vị và lý giải sâu sắc và tinh tế được nội dung được trình bày trong thi kệ.

6. Nội dung của các câu chuyện trong tuyển tập Jātaka
Tổng quan về nội dung, Maurice Winternitz29 liệt kê 7 mục như sau:

(1) Chuyện ngụ ngôn, hầu hết đều giống với ngụ ngôn Ấn Độ nói về những điều khôn khéo trong cuộc sống thế gian, chỉ có một ít chuyện mang thiên hướng đạo đức trong hình thái thơ kệ của những vịẩn sĩ. Còn lại là những chuyện ngụ ngôn nguyên chất Phật giáo.

(2) Chuyện thần tiên hay cổ tích, trong đó nhân vật là những con vật, hầu hết đều có sắc thái tương tự như những chuyện thần tiên lưu hành rộng rãi ở châu Âu, không liên hệ nhiều đến Phật giáo. Một số chuyện được bổ sung thêm ý hướng của Phật giáo hay cải biên thành chuyện nhà Phật. Một số chuyện khác dĩ nhiên là những sáng tác thuần chất Phật giáo.

(3) Những đoản cú hóm hĩnh hay ứng đối chớp nhoáng linh mẫn nhưng không liên hệ nhiều đến Phật giáo.

(4) Chuyện ngắn, chuyện dài hay tiểu thuyết, những câu chuyện này có khi kể lại những chuyến phiêu lưu, có khi chứa đựng một số ít hay nhiều những câu chuyện khác đan kết lại với nhau. Đó là những câu chuyện không liên quan nhiều đến Phật giáo ngoại trừ nhân vật chính diện là vị Bồ-tát.

(5) Những câu chuyện đạo lý.

(6) Một số câu châm ngôn.

(7) Một số thần tích nói về tấm lòng chí thành chí kính trong giới Phật giáo, số nhiều hơn là những thần tích khác thuộc về nền thơ ca của giới ẩn sĩ Ấn Độ.

II. KẾT CẤU LÕI VÀ KHUNG NGOI VI – PHƯƠNG THỨC HÌNH THNH MỘT CHUYỆN TIỀN THÂN CHUẨN

1. Cấu trúc bốn phần của một Chuyện Tiền thân
Một trong những Jātaka chuẩn mực là Chuyện con nai Nigrodha (số§12) gồm 4 phần được đánh số (1) đến (4) như sau:

(1) Sau sự cố một vị Tỷ-kheo-ni có thai và bị Đề-bà-đạt-đa tẩn xuất, đức Phật làm mọi chuyện trở nên rõ ràng và chứng minh rằng vị Tỷ-kheo-ni ấy Phạm hạnh thanh tịnh. Để làm nổi bật đạo lý trong câu chuyện ấy, Thế Tôn kể lại câu chuyện quá khứ.

(2) Thuở xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một con nai. Khi từ bụng mẹ sanh ra, con nai có màu sắc vàng, mắt của nó giống như hòn châu báu, sừng màu trắng bạc, miệng đỏ như tấm màn nhung, móng chân láng trơn như màu sơn mài, đuôi giống như đuôi con trâu rừng, thân to lớn bng con nghé. Nó sống trong rừng, được vây quanh với năm trăm con nai và được gọi là “nai chúa Nigrodha.” Không xa bao nhiêu, có một con nai khác với năm trăm con nai tùy tùng và được gọi là nai Sākha, nai này cũng màu sắc vàng.

Lúc bấy giờ, vua xứ Ba-la-nại thường hay săn bắn nai, không có thịt nai thì không ăn cơm. Hàng ngày, vua triệu tập tất cả dân chúng từ thành thị đến nông thôn lại, đình chỉ công việc của mọi người vì khoanh vùng cho vua đi săn bắn. Mọi người suy nghĩ: “Nay vua đình chỉ công việc của chúng ta; chúng ta hãy gieo by mồi và đt nước uống cho các con nai trong vườn, đuổi nhiều nai vào trong ấy, đóng cửa lại và bắt dn chúng đến vua.”

Như vậy, họ gieo cỏ làm by mồi, đt nước uống khắp vườn, cho sắp đt cửa, đem theo những người trong thành, tay cầm côn, gậy và các loại binh khí khác đi vào rừng tìm nai; họ bao một vòng vây khoảng độ một do-tuần để bắt đàn nai bị vây ở giữa, và như vậy, họ vây quanh chỗ ở của đàn nai Nigrodha và đàn nai Sākha.

Khi thấy đàn nai, họ bắt đầu lấy gậy đập cây, đập bụi, đập đất đuổi đàn nai ra khi chỗ ở của chúng, khua động các loại vũ khí như gươm, giáo, cung, la hét và đuổi đàn nai vào khu vườn. Rồi họ đóng cửa lại, đi đến gp vua và thưa:

– Thưa Ðại vương, vì luôn luôn đi săn nai, Ðại vương phá hoại công việc của thần dân. Nay chúng thần đã dn đàn nai rừng vào đầy cả khu vườn của Ðại vương. Từ nay trở đi, Ðại vương có thể ăn thịt chúng.

Sau khi thưa như vậy, dân chúng bỏ đi. Nhà vua nghe họ nói, đi đến khu vườn, nhìn các con nai, thấy hai con nai vàng, liền tha chết cho chúng. Từ đấy về sau, có khi nhà vua tự đi bắn một con nai rồi đem về, có khi người đầu bếp đi đến bắn nai rồi đem về. Các con nai thấy cây cung liền run rẩy vì sợ chết nên bỏ chạy. Nhưng khi bị hai, ba vết thương, chúng mệt mi, bị bệnh và bị giết. Ðàn nai báo sự việc như vậy lên Bồ-tát. Bồ-tát cho gọi Sākha và nói:

– Này bạn, nhiều con nai bị hại, dầu thế nào chúng cũng phải chết. Bắt đầu từ nay trở đi, chớ để các con nai bị tên bắn một cách vô ích. Hãy để các con nai thay phiên nhau đi đến chỗ phải chết. Một ngày là phiên đàn nai của tôi, một ngày là phiên đàn nai của bạn. Con nai nào đến phiên của mình cứ đi đến, nằm xuống, đt đầu vào chỗ phải chết. Làm vậy, các con nai khác khi bị thương.

Con nai Sākha chấp thuận. Từ đấy trở đi, theo phiên mình, một con nai đi đến, nm xuống đt cổ vào chỗ bị giết. Người đầu bếp đến, bắt con nai nm đấy rồi đem đi.

Một hôm, đến phiên một con nai cái có mang ở trong đàn nai Sākha. Con nai cái đến gp Sākha và thưa:

– Thưa chúa tể, tôi có thai, sắp sanh con, như vậy đàn có hai mạng sống đến phiên, hãy cho qua phiên của tôi!

Nai Sākha nói:

– Không thể bảo những con nai khác thế phiên cho ngươi được. Ngươi hãy chịu những gì sẽ đến với ngươi, hãy đi đi!

Con nai cái ấy không được nai Sākha chấp thuận, liền đi đến Bồ-tát và trình bày sự việc. Bồ-tát nghe xong liền nói:

– Ðược, hãy đi đi! Ta sẽ bỏ qua phiên của ngươi.

Rồi nai chúa tự mình đi đến, đt đầu vào chỗ chết nm chờ. Người đầu bếp thấy vậy liền nói:

– Con nai chúa đã được tha khi chết, nay lại nm ở chỗ chết này. Sự việc này là cớ sao?

Rồi kẻ ấy đi báo cho vua hay. Nhà vua lập tức ngự lên xe, đi đến với đoàn tùy tùng đông đảo, thấy Bồ-tát liền nói:

– Này bạn nai chúa, ta đã tha khi chết cho ngươi. Sao nay ngươi nm ở đây?

– Thưa Ðại vương, một con nai cái đến gp tôi, yêu cầu một con khác thay phiên cho nó. Tôi không có thể bắt một con nào khác chịu đau đớn vì bị chết được. Tôi quyết định cho con nai cái ấy mạng sống của tôi, nhận lấy cái chết thay cho con nai cái nên nm ở đây, Ðại vương chớ có nghi ngờ gì khác!

Vua nói:

– Hỡi nai chúa sắc vàng, từ trước, ta chưa bao giờ thấy giữa loài người, có ai đầy đủ kham nhn, hòa ái, từ bi như ngươi. Do vậy, ta thật bng lòng với ngươi. Hãy đứng dậy, ta sẽ cho ngươi và con nai cái ấy thoát khi sợ hãi!

– Thưa bậc Nhân chủ, có hai con nai được thoát khi sợ hãi, đàn nai còn lại thì thế nào?

– Này nai chúa, ta sẽ cho đàn nai còn lại thoát khi sợ hãi.

– Thưa Ðại vương, như vậy, các con nai trong khu vườn này được thoát khỏi sự sợ hãi nhưng các con nai khác thì sao?

– Này nai chúa, ta cũng cho chúng thoát khi sợ hãi.

– Thưa Đại vương, các con nai được thoát khi sự sợ hãi nhưng các loài sinh vật bốn chân khác thì sao?

– Này nai chúa, ta cũng cho chúng thoát khi sợ hãi.

– Thưa Ðại vương, các loài bốn chân được thoát khi sợ hãi nhưng các đàn chim thì thế nào?

– Này nai chúa, ta cũng sẽ cho chúng thoát khi sợ hãi.

– Thưa Ðại vương, các loài chim như vậy được thoát khi sợ hãi nhưng còn đàn cá sống ở trong nước thì thế nào?

– Này nai chúa, ta cũng sẽ cho chúng thoát khi sợ hãi. Như vậy, con nai chúa đã xin vua cho tất cả chúng sanh được thoát khi sợ hãi; đứng dậy, khuyên nhà vua thọ năm giới và nói:

– Thưa Ðại vương, hãy sống theo Chánh pháp! Hãy xử sự đúng Chánh pháp đối với cha m, đối với con trai, con gái; đối với Bà-la-môn, gia chủ; đối với dân chúng thành thị và nông thôn. Hãy tự mình sống đúng Chánh pháp, khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

Sau khi thuyết pháp cho vua với uy lực kỳ diệu của vị Phật, Bồ-tát sống tại khu vườn trong một vài ngày để khuyến giáo vua, rồi cùng với đàn nai vây quanh đi vào rừng. Con nai cái đẻ ra một con nai đực đp như một nụ hoa. Nai con này đi chơi với đàn nai Sākha. Thấy nai mình đi chơi với đàn nai Sākha, nai mẹ khuyên con mình, bắt đầu từ nay chớ đi tới Sākha, nên đi tới Nigrodha và nói lên bài kệ:

(3)  Sống với Nigrodha,
Chớ sống với Sākha.
Chết với Nigrodha,
Hơn sống với Sākha.

Từ đấy trở đi, các con nai thoát khi sợ hãi khi ăn lúa của dân chúng. Và dân chúng nhớ rng, các con nai được thoát khi sợ hãi, nên không dám đánh đập hay đuổi chúng đi. Họ tụ họp tại sân vua và báo lên vua biết. Vua nói:

– Do ta bng lòng, ta đã cho nai Nigrodha một đc ân. Ta thà mất nước chớ không blời đã hứa. Hãy đi đi, trong quốc độ của ta, không con nai nào bị đánh cả!

Nai Nigrodha nghe tin này, liền họp đàn nai lại và bảo:

– Bắt đầu từ nay, chớ ăn lúa của người khác!

Sau khi bảo chúng hứa như vậy, nai Nigrodha báo tin cho dân chúng biết:

– Bắt đầu từ nay, những người trồng lúa chớ rào ruộng lại để bảo vệ lúa, chỉ làm dấu bng cách cột lá lúa lại.

Bắt đầu từ đấy, theo tin đồn, khởi lên tục lệ cột lá lúa lại giữa các đồng ruộng. Bắt đầu từ đấy, các con nai không vượt qua đồng ruộng có lá lúa cột lại. Ðây là nhờ Bồ-tát khuyến giáo chúng như vậy. Sau khi khuyến giáo đàn nai, Bồ-tát sống ở đấy cho hết tuổi thọ, rồi cùng với đàn nai đi theo nghiệp của mình. Còn nhà vua nghe lời khuyến giáo của Bồ-tát, suốt đời làm các công đức, rồi sau đó mạng chung đi theo nghiệp của mình.

(4) Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo sư nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới bảo vệ Trưởng lão Ni và Kumāra Kassapa mà thuở trước Ta cũng bảo vệ như vậy. 

Rồi Ngài thuyết giảng bốn sự thật, nêu sự liên hệ giữa hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau và kết luận bng cách nhận diện tiền thân như sau:

– Thời ấy, con nai Sākha là Devadatta, đàn nai là tùy tùng của Devadatta, nai cái là Trưởng lão Ni, nai con là Kumāra Kassapa, vua là Ānanda, còn nai chúa Nigrodha là Ta vậy.

Theo cách trình bày của T. W. Rhys Davids, bố cục hay kết cấu của một câu chuyện tiền thân gồm có 4 thành phần chính: Hai thành phần thuộc khung ngoại vi để trang hoàng bên ngoài của câu chuyện và hai thành phần thuộc căn cốt của câu chuyện được lồng vào nhau. Câu chuyện tiền thân Chuyện con nai Nigrodha trên đây30 được thuật lại và đánh số từ (1) đến (4) để minh họa.

Khung ngoại vi của một câu chuyện tiền thân gồm phần giới thiệu, đoạn (1), và phần nhận diện tiền thân, đoạn (4). Bên trong là phần căn cốt hay “Câu chuyện quákhứ”, đoạn (2). Ở giữa đoạn (2) chứa đựng yếu tố hạt nhân hay tinh hoa của toàn câu chuyện; trường hợp mẫu như chúng ta đãthấy ởtrên, phần kệtụng tức là đoạn (3).

Bàn thảo thêm về quá trình hình thành tập Jātaka mà chúng ta đang có, T. W. Rhys Davids nhấn mạnh rằng, mỗi một thành phần như vậy có lịch sử hay câu chuyện của riêng nó.

2. Cấu trúc đơn thuần của một câu chuyện tiền thân cổ xưa
Hình dạng cổ xưa nhất mà bất kỳ Jātaka nào cũng có một cách tự nhiên là hình dạng của câu chuyện ngụ ngôn hay dụ ngôn đơn giản và không có khung ngoại vi. Trường hợp Chuyện con nai Nigrodha trong hình dạng nguyên sơ sẽ không có đoạn (1) và (4), đồng thời cũng không có đoạn (3) tức phần kệ tụng.

Câu chuyện ngụ ngôn trong bài kinh Kinh Con chim ưng (Sakuṇagghisutta)31 thuộc Kinh Tương ưng bộ được đơn cử như làmột hình dạng gốc hay cổ xưa nhất của một Jātaka:

“Rồi này các Tỷ-kheo, con chim cút bị con chim ưng mái bắt, than khóc như sau:

– Như thế này, thật bất hạnh cho tôi! Thật thiếu công đức cho tôi! Vì rằng tôi đã đi vào chỗ không phải hành xứ ca mình, đi vào cảnh giới ca người khác. Nếu tôi đi trong chỗ hành xứ ca tôi, trong cảnh giới ca cha mẹ tôi, thời con chim ưng này không thể hơn tôi, nếu phải đánh nhau.

– Này chim cút, thế nào là chỗ hành xứ ca ngươi, thế nào là cảnh giới ca cha mẹ ngươi?

– Là vạt đất được lưỡi cày xới lên.

Rồi này các Tỷ-kheo, con chim ưng mái không có siết mạnh sức mạnh của mình, không có bóp cht sức mạnh ca mình, thả con chim cút rồi nói:

– Hãy đi, này chim cút. Sau khi đi tại chỗ ấy, ta sẽ không thả ngươi.

Rồi này các Tỷ-kheo, con chim cút đi đến vạt đất được lưỡi cày xới lên, leo lên một hòn đất lớn, đứng trên ấy và nói với con chim ưng:

– Này, hãy đến ta, chim ưng! Này, hãy đến ta, chim ưng!

Rồi này các Tỷ-kheo, con chim ưng mái siết mạnh sức mạnh ca mình, bóp cht sức mạnh ca mình, xếp cả hai cánh, thình lình vồ lấy con chim cút. Này các Tỷ-kheo, khi con chim cút biết được: “Con chim ưng này đang vồ mạnh xuống ta”, liền nấp sau hòn đất ấy. Này các Tỷ-kheo, ở đây, con chim ưng bị bể ngực.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với ai đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới ca người khác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, chớ có đi đến chỗ không phải hành xứ ca mình, chỗ cảnh giới ca người khác. Này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ không phải hành xứ ca mình, đi đến cảnh giới ca người khác, thời Ác ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng.

Này các Tỷ-kheo, chỗ nào không phải hành xứ ca Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới ca người khác? Chính là năm dục công đức…”32

Câu chuyện ngụ ngôn ở trên với chức năng dẫn khởi để đi đến lời khuyên răn đạo đức là một câu chuyện đơn giản, chỉ có thành phần căn cốt mà thôi. Ở dạng này, câu chuyện không có khung ngoại vi (câu chuyện dẫn khởi ở đoạn 1 và phần nhận diện tiền thân để kết thúc ở đoạn 4 và cũng không có kệ tụng). Do vậy, đây chưa phải là một Jātaka chuẩn định.

Thế nhưng, một trong những yếu tố định hình một Jātaka chính là câu chuyện ngụ ngôn ấy, phần lớn là khớp với nhau từng lời từng chữ. Câu chuyện sau đóđược trang hoàng bằng một khung ngoại vi gồm câu chuyện dẫn khởi và phần nhận diện tiền thân… Đâu là phiên bản cổ kính hơn không còn là câu hỏi. Câu chuyện tiền thân đã trích xuất từ Kinh Con chim ưng, bài kinh chứa căn cốt của câu chuyện Jātaka trong kho tàng Chánh tạng đã có từ trước.

Nói cách khác, trong nhiều trường hợp, những nhà phát triển truyền thống Jātaka đã chọn ra và sử dụng một cái lõi hay cái căn cốt dưới hình thức một dụ ngôn, một câu chuyện ngụ ngôn, hay một minh dụ có sẵn trong Chánh tạng; sau đó trang hoàng phần căn cốt ấy bằng một khung ngoại vi rồi đặt một khổ kệ tụng làm điểm nhấn và cũng là chủ đề của toàn bộ câu chuyện. Như vậy, một Jātaka mới được hình thành.

Đây không phải là trường hợp cá biệt. T. W. Rhys Davids đã liệt kê thêm 9 trường hợp khác.

Bảng 01:

STT

Số

Dựa trên bản dịch của Fausböll

Đối chiếu với Chánh tạng PTS

Jātaka tiếng Việt

1

1.

Apaṇṇakajātaka

Majjhima

II. 342

Chuyện không lỗi lầm

2

9.

Makhādevajātaka

Majjhima

II. 75

Chuyện Vua Makhādeva

3

10.

Sukhavihārijātaka

Vinaya

II. 183

Chuyện Trưởng lão Sukhavihāri

4

37.

Tittirajātaka

Vinaya

II. 161

Chuyện con chim trĩ

5

91.

Littajātaka

Dīgha

II. 348

Chuyện đã được thoa

6

95.

Mahāsudassanajātaka

Dīgha

II. 169

Chuyện Vua Đại Thiện Kiến

7

203.

Khandhajātaka

Vinaya

III. 1095

Chuyện tu tập từ tâm

8

253.

Maṇikaṇṭhajātaka

Vinaya

III. 145

Chuyện vua rắn Maṇikaṇṭha

9

405.

Bakabrahmajātaka

Majjhima

I. 328

Chuyện Phạm thiên Baka

Saṃyutta

I. 142

Những nhân vật chính diện trong Chuyện Vua Makhādeva (số §9) và Chuyện Vua Đại Thiện Kiến (số §95) đã có sẵn trong những bản kinh xưa hơn33 và được nhận diện là tiền thân của đức Phật ở cuối câu chuyện. Một số trường hợp như Chuyện đã được thoa (số §91) và Chuyện Phạm thiên Baka (số §405), phần kệ tụng cũng đã có sẵn. Những câu chuyện tiền thân còn lại trong bảng danh sách trên đều thiếu cả phần kệ tụng lẫn phần nhận diện tiền thân.

Ở trên là những trường hợp dựa vào kinh điển cổ kính hơn để có phần căn cốt rồi gia công thêm phần khung và phần kệ. Kết quả là một chuyện tiền thân hoàn chỉnh với đầy đủ những thành phần thiết yếu. Nói cách khác, những nhà phát triển Jātaka đã khai thác nguồn tư liệu xưa hơn, phát hiện những chuyện tiền thân chưa hoàn chỉnh, làm cho hoàn chỉnh và đưa vào tập Jātaka.

Kế đến là những trường hợp gần như ngược lại, trong nguồn tư liệu cổ kính đã có sẵn những chuyện tiền thân hoàn chỉnh và đã có đầy đủ các thành phần. Thế nhưng những nhà phát triển Jātaka vì lý do nào đó lại không đưa vào tập Jātaka. Điều thú vị là trước khi có một bộ chuyện được đặt tên là Jātaka, những câu chuyện trong trường hợp trên đã có tên là Jātaka. Kho tàng kinh điển nhà Phật từ xưa đã được xếp thành 12 thể loại, xưa hơn nữa xếp thành 9 thể loại. Cách phân chia thành 9 thể loại được ghi lại trong Trung bộ, Tăng chi bộ Luật tạng.34 Trong cả hai trường hợp đều có thể loại tên là Bổn sanh (Tiền thân). Thể loại này bao gồm những đoạn kinh kể về những chuyện xa xưa ở kiếp trước, những đoạn kinh ấy phải có trước rồi sự phân chia thể loại mới có sau. Như vậy, thể loại Bổn sanh không phải chỉ cho tập Chuyện Tiền thân, đơn giản là vì tập Jātaka chưa có mặt. Điều quan trọng chúng ta cần ghi nhận, không có trường hợp nào thuộc về thể loại Bổn sanh mà tiền thân của đức Phật được nhận diện là một con thú. Tiền thân của đức Phật chỉ được nhận diện là những vị Thánh trí, những vị Đạo sư trong kiếp trước. Đó là ý niệm mà từ vựng Jātaka thời nguyên sơ chuyển tải. Những điều mà chúng ta thấy trong tập chuyện Jātaka ngày nay đều nằm trong sự phát triển của giai đoạn sau này.

Hai sự thật quan trọng mà chúng ta có thể nhận ra khi ý thức được sự có mặt của những chuyện tiền thân nguyên sơ thuộc thể loại Bổn sanh. Một, những chuyện tiền thân nguyên sơ ấy hầu hết đều không có khung ngoại vi và không có kệ tụng, hoàn toàn bằng văn xuôi như những câu chuyện thần tiên,35 thần thoại,36 thần tích.37 Hai, tập chuyện tiền thân mà chúng ta đang có chỉ là một phần được bảo tồn, không phải là tất cả những chuyện tiền thân đang lưu hành trong cộng động Phật giáo thuở xa xưa ấy.

III. DẤU VẾT CA NIÊN ĐI TRONG VĂN THỂ VÀ DỮ LIỆU LCH SỬ

1. Jātaka trong phiên bản kệ tụng
Ở vạch xuất phát, Jātaka xuất hiện trong thể văn nào, thể văn xuôi hay thể kệ tụng, và sau đó tiến triển ra sao vẫn là một câu hỏi khó có câu trả lời thuyết phục. Câu trả lời của Maurice Winternitz được xem khá cóthẩm quyền, cho rằng:38 “Phần văn xuôi không thể được xem là xa xưa và nguyên gốc khi so với phần kệ tụng. Điều này trở nên hiển nhiên khi phần văn xuôi được dịch từ tiếng Pāli sang tiếng Sinhalese (Tích Lan), sau đó lại được dịch ngược trở lại từ tiếng Sinhalese về tiếng Pāli; chưa kể trong quá trình dịch xuôi và dịch ngược như vậy đã xảy ra nhiều cải biến, thêm thắt, thậm chí là biên tập thành một phiên bản hoàn toàn mới. Trong nhiều trường hợp, phần văn xuôi bộc lộ cho chúng ta thấy sự không đồng nhất về phương diện văn chương, rất tuyệt trong những câu chuyện ngụ ngôn hay chuyện thần tiên ngắn và rất nhạt trong những trường hợp mà phần văn xuôi tỏ ra không cần thiết.”39 Thậm chí có những phần văn xuôi được biên soạn vàthêm vào khá trễ sau này, trong đó có nhiều dẫn chiếu đến Tích Lan.

Hai phần văn xuôi và kệ tụng đôi khi như là bất nhất với nhau, cụ thể là trường hợp Chuyện con mèo (số §128), phần kệ tụng gọi là mèo, phần văn xuôi gọi là chó rừng. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu ở một cách khác là cách diễn đạt của thời cổ mượn việc A để nói việc B, vì tính mưu mẹo, lường gạt kẻ khác xem như là thói của con mèo. Ngôn ngữ được sử dụng trong phần kệ tụng là dạng ngôn ngữ cổ xưa hơn so với ngôn ngữ trong phần văn xuôi. Điều này thêm xác quyết khi cho rằng phần kệ tụng của Jātaka được giữ nguyên từ thời khởi phát, không phải trải qua hai lần dịch xuôi và ngược như phần văn xuôi.

Tiểu kết: Phần kệ tụng xa xưa hơn, xuất hiện trước và có mặt trong Chánh tạng trước. Chỉ có phần kệ tụng được chọn ghi chép vào Chánh tạng phiên bản đầu tiên, còn phần xuôi thì không. Lý do được nêu lên là vì phần kệ tụng đã được xác định như vậy, vững chắc và ổn định, cứ như vậy được viết xuống, trong khi phần văn xuôi bất định hơn. Nói cách khác, sở dĩ phần văn xuôi bất định hơn vì tùy vào phong cách thuyết giảng và vốn sống của từng vị giảng sư khác nhau, hình thành nên kỹ năng kể chuyện khác nhau, mạch lạc dẫn dắt câu chuyện khác nhau, thậm chí thay đổi, thêm hoặc bớt những chi tiết trong câu chuyện. Trái lại, như là một truyền thống cố định, khi kể chuyện gặp những đoạn kệ tụng, các vị giảng sư thường có ý hướng giữ gìn chính xác từng câu, từng chữ và ngâm nga lại những câu chữ ấy, thậm chí với những làn điệu trầm bổng như nhau. Vì vậy, phần kệ tụng có được sự thống nhất, tính đồng thuận cao nhất và được đưa vào Chánh tạng ngay từ đầu. Phần văn xuôi không được như vậy vì bị  tùy thuộc nơi ý hướng và cảm xúc thường là rất khác nhau của từng vị giảng sư khi thuyết giảng.

2. Jātaka trong phiên bản kệ tụng và văn xuôi
Mặc dù bản Chánh tạng đầu tiên của Jātaka chỉ có phần kệ tụng nhưng điều này không có nghĩa là những câu chuyện tiền thân ở thời nguyên sơ có mặt trong Kinh tạng và Luật tạng hay trong nền văn hóa dân gian chỉ có kệ tụng. Cần phải nhận thức rằng thuởn guyên sơ ấy, Jātaka là những câu chuyện vừa có ăn xuôi vừa có kệ tụng đan xen vào nhau. Đó là thể thức phổ quát và được ưa chuộng trong nền văn học Ấn Độ, là nền tảng mà trên đó nền văn học Phật giáo hình thành và phát triển. Người Ấn Độ thời cổ đại khi kể chuyện bằng văn xuôi, thỉnh thoảng đệm vào những câu kệ làm cho câu chuyện thêm sống động và dậy men cảm khái nơi người nghe. Những câu kệ ấy có khi là một tiểu kết ngắn gọn cho những nội dung đã diễn đạt, có khi là một bài học đạo lý rõ ràng và súc tích. Mặt khác, khi muốn ngâm nga một câu kệ, người xưa sẽ sử dụng câu văn xuôi để mào đầu như một kỹ thuật trần thiết khung cảnh trước, hay như một dạng tiền trạm rồi mới đưa những câu kệ vào.

Ananda Salgadu Kulasuriya40 đã kết luận rằng mặc dầu mối quan hệ giữa phần văn xuôi và phần kệ tụng có mức độ chưa rõ ràng nhưng chúng ta đừng quên rằng phần kệ tụng cổ điển hơn vàquan trọng hơn so với phần văn xuôi ở chỗ phần kệ tụng đặt nền móng cho một Jātaka và là một thành phần thiết yếu của câu chuyện.

3. Phân loại chi tiết các nhóm câu chuyện tiền thân
Ông Ananda Salgadu Kulasuriya cũng cố gắng làm rõ hơn mối tương quan của hai thể loại văn xuôi và kệ tụng thông qua việc xếp Jātaka thành những nhóm khác nhau như sau: 

1. Nhóm Jātaka là những câu chuyện văn xuôi với một hoặc hai khổ kệ, hoặc nhiều hơn, được dùng để chuyển tải bài học đạo lýhay nêu lên đại ýcủa câu chuyện. Nhóm này giữgìn ởnhiều mức độnội dung của câu chuyện xa xưa.

2. Nhóm Jātaka là một thể thơ ca tên là campu,41 với mạch lạc của câu chuyện được kể khi thì bằng văn xuôi khi thì bằng kệ tụng. Nhóm này chuyển tải một nguyên bản văn xuôi đầu nguồn.

3. Nhóm Jātaka trong phiên bản ngọn nguồn xa xưa chỉ gồm có phần kệ tụng. Dạng này lại được chia thành những chùm nhỏ hơn:

a) Chùm kịch thơ theo thể thức đối thoại bằng kệ tụng.
b) Chùm kịch thơ gồm hai thể thức kệ tụng kết hợp với nhau: Kệ tụng dẫn chuyện và kệ tụng đối thoại.
c) Chùm những thiên trường ca hay những phân đoạn của thiên trường ca.
d) Chùm những câu nói đạo lý xâu kết lại theo một chủ đề nào đó.

Trong tất cả trường hợp này, phần văn xuôi chỉ là diễn giải.

4. Vết tích của Bà-la-môn giáo trong Jātaka
Ngoài những điều trên, T. W. Rhys Davids đã đi thêm một mức và gợi ý rằng, nhân vật của 10 Jātaka như đã đề cập trong bản 01 vốn đã có mặt từ trước trong hình dạng nguyên sơ đã cho chúng ta thấy vết tích của lịch sử thuộc thời kỳ tiền Phật giáo. Trong 10 câu chuyện không có chứa điều gì đặc nét Phật giáo, không có nhân vật nào là thuần túy Phật giáo, ngay cả đạo lý mà 10 câu chuyện này chuyển tải cũng là đạo lý Ấn Độ, tất cả đều được cải biến để ít nhiều phù hợp với đạo đức nhà Phật.42 Ngay cả câu chuyện của Vua Đại Thiện Kiến, mạch chính vẫn là một thần thoại của Ấn Độ về tín ngưỡng thờ mặt trời. Chín câu chuyện còn lại đều nằm trong kho tàng chuyện kể dân gian Ấn Độ. Chuyện dân gian đầy những yếu tố mê tín dị đoan. Phật giáo loại bỏ những yếu tố ấy. Thế thì dấu ấn Phật giáo nằm ở đâu? Câu trả lời là nằm ở cách lựa chọn, nằm ở sự cải biến. Như đã nói, sau khi chọn lựa, những nhà phát triển Jātaka cũng ra sức gia công để nâng cấp câu chuyện về cả hình thức văn chương lẫn nội dung tư tưởng.

5. Jātaka trong các bức điêu khắc bằng sa thạch
Nhìn vào một bức điêu khắc chứa nhiều phân cảnh của một chuyện tiền thân, đối với một người chưa từng biết qua câu chuyện bằng văn xuôi, T. W. Rhys Davids cho rằng người ấy hoàn toàn không thể hiểu nổi. Trường hợp ngoại lệ là một bức phù điêu không còn nguyên vẹn có khắc dòng chữ: “Yaṃ bāmaṇo avāyesi Jātaka.43 Đây là những chữ khởi đầu trong bài kệ của câu chuyện tiền thân Chuyện cô gái trên lầu bảy tầng, số §62.

Tên gọi của một câu chuyện tiền thân cũng có những biến đổi. Từ năm 1880, T. W. Rhys Davids cho rằng cùng là một chuyện tiền thân nhưng được gọi bằng một tên khác khi nằm trong tập chuyện Jātaka chuẩn định. Ngay cả trường hợp của những bức phù điêu vô cùng xa xưa, có khi cũng điêu khắc hai tên gọi khác nhau cho cùng một câu chuyện. Một mẫu điêu khắc minh họa cho câu chuyện thần tiên về con mèo và con gà. Câu chuyện này được gọi cả hai tên trong tiếng Pāli: “Chuyện Tiền thân con mèo” và “Chuyện Tiền thân con gà trống.”44 Lý do tại sao một câu chuyện tiền thân có thể có nhiều tên cũng đơn giản. Trường hợp của câu chuyện tiền thân kể về con sư tử và con chó rừng45 để chỉ cho sự ưu thắng của một đức tính tốt, câu chuyện cần có một tên gọi ngắn và được gọi là “Chuyện Tiền thân sư tử” hay được gọi bằng một tên khác là“Chuyện Tiền thân chó rừng”, thậm chí cũng được gọi bằng một tên khác nữa là “Chuyện Tiền thân về đức tính tốt.” Khi câu chuyện tiền thân kể về một con rùa để chuyển tải đạo lý hậu quả của thói lắm lời,46 câu chuyện ấy được gọi tên là “Chuyện Tiền thân ca kẻ huyên thuyên”, hoặc còn được gọi bằng tên “Chuyện Tiền thân con rùa.” Thế là chỉ có một câu chuyện mà có đến hai tên gọi khác nhau. Nhận thức thông thường cho chúng ta biết rằng rất khó nếu không nói là không thể trong một khoảnh khắc mà đặt định được một tên gọi nêu bật được đạo lý và hành vi của nhân vật khiến cho đạo lý ấy được chuyển tải. Như vậy, những tên gọi khác nhau được đặt định và chúng có thể hoán đổi cho nhau. Cũng không có gì ngạc nhiên khi chúng ta thấy trường hợp những từ vựng trọng yếu của phần kệ tụng được sử dụng làm tựa hay tên gọi cho câu chuyện Jātaka. May mắn lớn nhất vẫn là việc những từ trọng yếu ấy vẫn còn hiện hữu trên đời dưới dạng những dòng chữ khắc trên đá ở thế kỷ III TTL.

6. Giả thuyết về Jātaka được đưa vào Chánh tạng và tác giả
Một điều nữa cần được quan tâm là phiên bản gốc hay bản đầu nguồn của tập Jātaka khi được đưa vào Chánh tạng như thế nào. Bản gốc ấy47 rất hiếm hoi, hiếm hoi ngay cả dưới dạng bản cảo nguyên sơ chưa biên tập. Vô cùng thú vị là việc khám phá ra được tập Jātaka phiên bản tinh tuyền, và chúng ta hãy xem trong phiên bản ấy có nói gì về tên gọi hay tựa đề của Jātaka hay không, có chứa dị bản nào của phần kệ tụng hay không.

Phiên bản của tập Jātaka nổi tiếng do Giáo sư Fausböll biên tập, cung cấp cho chúng ta phần chú giải nhưng không cho biết về niên đại. Điều mà chúng ta biết là trước thế kỷ V, không hề có dạng chú giải viết xuống dưới dạng kinh văn như vậy, tất cả đều ở dưới dạng truyền khẩu.48

Phần chú giải này có thể có cùng niên đại, tức là vào thế kỷ V. Người biên soạn đã tự giới thiệu một chút về bản thân trong dòng kệ tụng khởi đầu nhưng vẫn không giới thiệu đạo hiệu hay danh tánh. Thay vì nói tên của mình, người biên soạn ấy đã nói tên ba người thúc đẩy ông dấn thân vào công trình biên soạn, và nói thêm rằng công việc này kế tục theo truyền thống Jātaka, một truyền thống thế thế truyền thừa trong sơn môn Đại tu viện của xứ Anuradhapura (Tích Lan). Trong 7 tập lớn của công trình này, người biên soạn đã hai lần gián tiếp nhắc đến những vị học giả Tích Lan thuộc thế kỷ II.49 Mặc dầu người biên soạn nhắc tên như vậy trong mục ghi chú nhưng như thế là đã khá đủ cho chúng ta đi đến kết luận rằng công trình này được thực hiện ở Tích Lan. Giáo sư Childers nghĩ rằng người biên soạn chính là Ngài Buddhaghosa, một tác gia nổi tiếng của nhiều công trình chú giải khác.50

7. Bối cảnh văn hóa, tôn giáo, chính trị thời tiền Phật giáo tại Ấn Độ trong Jātaka
Liên quan đến niên đại của tập Chú giải, của bối cảnh cuộc sống mà tập Chú giải phản ánh, của phần kệ tụng và phần văn xuôi… có nhiều học giả hàng đầu bàn đến như Lüders, Fick và Hofrath Bühler. Quan điểm của Hofrath Bühler được xem là có thẩm quyền và công tâm nhất, cho rằng:

“Điều chủ yếu cần nghĩ tới là khi vay mượn (cốt chuyện) như vậy những nhà Sư Phật giáo có cải biến nhiều không? Đặc biệt, những miêu tả về cuộc sống mà tập Jātaka chứa đựng có được canh tân cho khớp với thời đại khi mà Phật giáo đã trở thành một lực lượng ở Ấn Độ hay không? Câu trả lời chỉ có thể là: Có rất ít dấu vết Phật giáo trong những câu chuyện vay mượn ấy và tập Jātaka không miêu tả bối cảnh đời sống ở Ấn Độ trong thế kỷ III-IV TTL mà là bối cảnh đời sống xa xưa hơn nữa.”51

Hofrath Bühler nêu lý do:

“Những miêu tả về bối cảnh chính trị, tôn giáo và xã hội ấy rõ ràng là dẫn chiếu tới một thời xa xưa trước khi những vương triều lớn phía Đông trỗi dậy như vương triều Nanda và vương triều Maurya, khi mà Pāṭaliputra đã trở thành thủ đô của Ấn Độ. Những Jātaka không đề cập đến vương triều này cũng không đề cập đến vương triều kia và không nhận thức gì về những vương quốc lớn phủ trùm toàn bộ hay phủ trùm những khu vực mênh mông của Ấn Độ. Số lượng đáng kể là những vương quốc mà nhà vua xuất hiện trong những câu chuyện tiền thân, cụ thể là Madra, Pancala, Kosala, Videha, Kasi và Vidarbha. Những vương quốc ấy lại khớp với những vương quốc mà nền văn học Vệ-đà đề cập đến. Trong khi đó, một số những vương quốc khác như Kaliṅga và Assaka đã được đề cập sớm nhất bởi những Thiên trường ca (Epics) và trong những bài kinh Pāṇini thuộc nền văn học Bà-la-môn. Những cái tên đặc biệt như Andhra, Pāṇḍya và Kerala lại không thấy được đề cập đến.

Mặc dầu đọc trong Jātaka, chúng ta không thấy một trung tâm chính trị nhưng có những câu nói liên quan đến việc giáo huấn dành cho những thanh niên Bà-la-môn và những người cao quý. Việc giáo huấn này cho chúng ta thấy rằng có một trung tâm học thuật ở Takkasilā, thủ đô của xứ Gandhāra… Hơn nữa, hầu như chắc chắn rằng Gandhāra, quê quán của Pāṇini, là một trung tâm học thuật vững mạnh của Bà-la-môn giáo vào thế kỷ IV-V TTL, thậm chí là xa xưa hơn nữa. Những câu nói trong Jātaka có liên quan đến bối cảnh tôn giáo của Ấn Độ dẫn chiếu tới một thời kỳ xa xưa như vậy. Cũng giống như ba tập Vệ-đà là căn bản cho giáo dục cao cấp, hoạt động tâm linh thịnh hành thời bấy giờ là con đường của lễ nghi và tế tự. Hai dạng tế lễ nổi tiếng là Vājapeya và Rājasūrya đặc biệt được Jātaka nhắc đến nhiều lần. Song song với giáo dục và lễ nghi là những lễ hội dân gian ăn mừng thời khắc Nakshatra52 được công bố. Tưng bừng rộn rã với những cuộc vui chơi đủ kiểu, những cuộc chè chén say sưa với rượu mạnh surah. Ở một mảng sinh hoạt khác, người có tín tâm thì đi lễ bái các vị thần, thần cây, thần núi… Đậm chất tâm linh siêu phóng là hình bóng của những vị ẩn sĩ, du sĩ rày đây mai đó. Tất cả đều thuộc về thời kỳ ban sơ với những nét đặc trưng cổ đại. Nền văn minh mà Jātaka phản ánh mang tính giai đoạn sơ kỳ về nhiều phương diện, đáng chú ý là độ phổ biến của kiến trúc gỗ. Chỉ dấu từ những bức phù điêu bằng đá cho biết rằng kiến trúc gỗ không còn thịnh hành và hầu như biến mất vào thế kỷ III TTL. Thế mà những hoàng cung trong các câu chuyện tiền thân khi được miêu tả chi tiết thường cho chúng ta biết đấy là những kiến trúc làm bằng gỗ. Như vậy là đủ để chúng ta thấy độ xa xưa của những câu chuyện.”

Trong bài tựa của tập Jātaka cuối cùng, bản thân Giáo sư Fausböll cũng đã cho chúng ta thấy điều này. Ngoài ra còn có sự đồng thuận của những học giả hàng đầu khác nên chúng ta đủ cơ sở khoa học để xác lập độ cổ kính được phản ánh trong truyền thống Jātaka. Mặt khác, dựa trên những kệ ngôn trong Jātaka, chúng ta có thể lọc ra được những thông tin để làm sử liệu cho một giai đoạn hay một thời kỳ trong trường thiên lịch sử Ấn Độ. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng việc đưa vào và lưu giữ Jātaka trong Chánh tạng xứng đáng nhận một lời cảm ơn từ chuyên ngành lịch sử Ấn Độ. Truyền thống Jātaka đã bảo tồn thông tin về xã hội và chính trị theo ánh nhìn của những người thuộc thế hệ xa xưa hơn. Phần kệ tụng trong Jātaka, dĩ nhiên, có độ khả tín cao nhất, dụng ngữ của nó thuộc về thời kỳ xưa hơn vài ba thế kỷ về trước. Phần văn xuôi từ trước đến nay hẳn là phần đồng hành xuyên suốt với phần kệ tụng53 và được các bức phù điêu minh họa như thể đó là chuyện đương nhiên. Chúng ta cần nhìn nhận giátrịcủa phần văn xuôi ấy một cách tương xứng.

8. Các giai kỳ biên tập Jātaka
Chúng ta đã ghi nhận một vài điều về niên đại sớm hay muộn của những câu chuyện Jātaka khi so sánh với nhau và thấy rằng có hai giai đoạn riêng biệt trong tiến trình hình thành truyền thống Jātaka. Toàn bộ những câu chuyện dài, có trường hợp dài như một quyển tiểu thuyết ngắn của thời hiện đại, đều được xếp vào trong tập VI của phiên bản Fausböll tiếng Pāli. Những câu chuyện dài này thuộc về giai đoạn phát triển hậu kỳ thể hiện trong phương diện dụng ngữ cũng như trong ánh nhìn của chúng về bối cảnh đời sống của Ấn Độ cổ đại. Tập VI có niên đại trễ hơn so với 5 tập đầu. Tuy có niên đại trễ hơn vàtrễ nhất so với tổng thể nhưng một số câu chuyện tiền thân cũng đã kịp có mặt trong những bức phù điêu của thế kỷ III TTL. Niên đại ấy là niên đại của cả hai phần, kệ tụng và văn xuôi, bởi vì những bức phù điêu cũng đã dẫn chiếu đến phần văn xuôi của câu chuyện.

Ở một giai đoạn xa xưa hơn trước đó, chúng ta có thể kết luận rằng một số câu chuyện khi được đưa vào Phật giáo54 thì bản thân chúng lúc ấy vốn đã là câu chuyện xa xưa lắm rồi. Như đã nói ở trên, niên đại của một số trường hợp có thể truy ngược thời gian về giai đoạn tập Jātaka chưa có mặt. Số trường hợp ấy chiếm đến 60-70%, chúng còn ở trong hình dạng đơn thuần và chưa có phần kệ tụng đi kèm theo. Ngày nay trong tập Jātaka mà chúng ta hiện có, vẫn còn một số lượng đáng kể những câu chuyện đơn thuần như vậy. Dạng kệ tụng55 mà chúng ta thấy xuất hiện trong những trường hợp này chỉ là phần kệ tụng của khung ngoại vi.56 Một dạng kệ tụng nữa57 xuất hiện trong những trường hợp khác thực chất chỉ là một đoạn hợp xướng hay một đoạn ca tụng được đặt vào miệng của một vị thiên. Từ những điều trên T. W. Rhys Davids đi đến kết luận rằng những câu chuyện ấy đã có sẵn trước và trong tình trạng đơn sơ đơn tuyến không có kệ tụng đi theo. Sau đó, những nhà phát triển Jātaka đưa chúng vào khung chuẩn của một Jātaka kiểu mẫu thông qua việc thêm vào phần kệ tụng. Vì vậy, những câu chuyện ấy không chỉ thuộc về thời kỳ tiền Phật giáo mà chúng còn là di sản văn hóa được kế thừa từ những thời kỳ rất xa xưa, có thể nói là quá khứ của quá khứ.

Mặt khác, chúng ta cũng thấy rằng chính phương thức có tính tập tục được sử dụng trong việc truyền tải những câu chuyện hay những thần tích từ thế hệ tiền hiền xuống thế hệ hậu bối cũng là phương thức của thời tiền Phật giáo. Phật giáo dựa trên phương thức ấy mà truyền thừa di sản Jātaka, đó là những mạch chuyện truyền miệng bằng thể loại văn xuôi, chỉ có phần hội thoại bằng thể loại văn vần hay kệ tụng. Nói cách khác, di sản tập chuyện Jātaka chỉ là một thí dụ nữa tuy mang tầm vóc lớn hơn của hình thái tiền trường ca (pre-epic) văn vần thuộc một nền văn học cổđại. Trong nền văn học ấy, có rất nhiều mảnh di sản khác ngắn hơn được lưu giữ trong kinh văn thuộc giai kỳ sớm hơn trong Chánh tạng.58

9. Đúc kết của đại học giả Rhys Davids về Jātaka
T. W. Rhys Davids tóm tắt những điều ông nói về Jātaka trong 15 điều:

(1) Tập Jātaka trong Thánh điển chỉ thuần là kệ tụng được biên soạn trước thời Asoka ở Bắc Ấn tại Madhyadesa. Tập Jātaka này vẫn chưa xuất bản.

(2) Chắc chắn rằng tập Jātaka thuần kệ tụng ngay từ đầu đã được truyền thừa song song với tập Chú giải. Tập Chú giải ấy chủ yếu là gồm những câu chuyện truyền khẩu bằng văn xuôi. Sở dĩ như vậy là bởi vì nếu không có những câu chuyện đi kèm theo, người ta không thể hiểu được những câu kệ tụng.

(3) Một số những câu chuyện trên đã được những bức phù điêu của thế kỷ III TTL minh họa. Không những vậy, một trong những bức phù điêu ấy còn ghi lại phân nửa của một khổ kệ.

(4) Có những câu chuyện tiền thân nằm trong Thánh điển, chúng xa xưa hơn những câu chuyện tiền thân nằm trong tập Jātaka.

(5) Những câu chuyện tiền thân xưa nhất còn giữ được là những dụ ngôn, những ngụ ngôn, hay những thần tích; chúng thường không có khung ngoại vi và cũng không có kệ tụng.

(6) Tập Jātaka mà chúng ta đang có không phải là tập Chánh tạng Jātaka mà là tập Chú giải Jātaka; tập Chú giải này hẳn là đã được viết xuống vào thế kỷ V ở Tích Lan, tác giả khiếm danh.

(7) Tập Chú giải này gồm tất cảnhững khổ kệ tụng và những câu chuyện bằng văn xuôi với những khổ kệ tụng được đan xen vào. Mỗi một câu chuyện như vậy được thêm vào một khung ngoại vi gồm một đoạn giới thiệu (cho biết thời gian, địa điểm và nhân duyên đức Phật kể lại) và một đoạn nhận diện tiền thân (nhân vật trong các câu chuyện được nhận diện là đức Phật và những người đồng đại với Ngài trong kiếp trước).

(8) Tập Chú giải này là một bản dịch sang tiếng Pāli từmột tập Chú giải truyền thừa ở Tích Lan. Bản gốc của tập Chú giải trong tiếng Sinhalese (Tích Lan) trừ những khổ kệ tiếng Pāli và đã bị thất lạc.

(9) Những câu chuyện trong tập Chú giải tiếng Pāli mà chúng ta đang có đã giữ trọn vẹn truyền thống Jātaka của thế kỷ III TTL. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp vẫn có những cải biến đã bị phát hiện.

(10) Khi gián tiếp đụng chạm đến tình hình chính trị xã hội, hầu hết những câu chuyện tiền thân ấy đều dẫn chiếu tới tình hình ở Bắc Ấn Độ thời Phật và trước thời Phật.

(11) Khi tập Jātaka gốc đang trong quá trình tiệm tiến định hình, hầu hết những câu chuyện được khai thác nguyên dạng từ kho tàng văn học dân gian Bắc Ấn Độ.

(12) Việc xác định niên đại tương đối của những câu chuyện thời ấy phần nào đã tiến triển. Những câu chuyện trong tập VI là những câu chuyện dài nhất và trễ nhất. Trong đó, một số câu chuyện đã được chọn ra để minh họa bằng những bức phù điêu của thế kỷ III TTL.

(13) Tất cả những câu chuyện tiền thân ấy đều có kèm theo kệ tụng. Trong một vài trường hợp, những khổ kệ tụng nằm trong khung ngoại vi mà không nằm trong bản thân câu chuyện. Những câu chuyện không có kệ tụng ấy có lẽ đã giữ lại hình dạng gốc [của nó] trong kho tàng chuyện dân gian Ấn Độ.

(14) Trong một số trường hợp, những khổ kệ tụng mặc dầu thuộc về câu chuyện lại chỉ là một dạng đồng ca, không tham gia vào làm một phần của mạch chuyện. Trong những trường hợp này, chúng ta có thể đi đến kết luận tương tự [như kết luận ở (13)].

(15) Tập Jātaka này là bộ sưu tập cổ xưa nhất, hoàn chỉnh nhất, đáng tin cậy nhất của kho tàng chuyện cổ tích dân gian mà chúng ta còn giữ được trong nền văn học thếgiới.59

IV. GIAO THOA, TIẾP BIẾN VỚI CC NỀN VĂN HA ĐÔNG TÂY

1. Ảnh hưởng của các nhà hoằng pháp Phật giáo đối với Jātaka
Trải qua dòng lịch sử của gần một ngàn năm khởi phát và truyền thừa, bổ sung và chuẩn hóa ngang qua nhiều địa tầng văn hóa, văn học truyền khẩu vàvăn chương bác học của những nền văn minh Đông Tây tạo cho Jātaka códiện mạo mà chúng ta thấy hôm nay, đa dạng về thể loại, phong phú đến kinh ngạc về nội dung. Jātaka chứa đựng nhiều nội dung đậm đà bản sắc Phật giáo, có khi nhạt hơn, thậm chí có khi thiếu hẳn. Câu hỏi đặt ra: Tại sao phong phú, đa dạng và có sắc thái Phật giáo ở những mức độ cao thấp không đều như vậy? Câu trả lời là Phật giáo truyền đến đâu sẽ dung hòa hay dung nhiếp những yếu tố văn hóa ở đó. Thần thánh của những địa phương xa lạ cũng được cải biên để trở thành các vị thần hộp háp; những câu chuyện dân gian của các xứ sở xa xôi cũng được cải biên để trở thành những câu chuyện Phật giáo. Đó là điều không hề hiếm thấy trong nhãn quan của các học giả chuyên ngành đã từng nỗ lực soi rọi vào những lớp trầm tích văn hóa cổ xưa.

Những nhàhoằng pháp Phật giáo thường có nguồn gốc xuất thân từ nhiều môi trường văn hóa khác nhau, thậm chí từ những tôn giáo khác nhau, đông đảo nhất là những vị trước kia là Bà-la-môn, gia chủ. Trước khi xuất gia, những nhà hoằng pháp Phật giáo đã sống trong những khung cảnh khác nhau, hoạt động ở những giai tầng xã hội khác nhau, làm việc mưu sinh trong những đoàn thể, ngành nghề, chức nghiệp khác nhau. Trong phạm vi của mỗi cộng đồng như vậy lại riêng có những cụm câu chuyện mang phong vị riêng trong giới của mình. Sau khi gia nhập vào hàng ngũ Tăng-già, tham gia hoạt động hoằng pháp, những vị ấy vẫn còn mang theo trong lòng những câu chuyện, điển tích, những nét văn hóa và kể lại sau khi đã tẩm sắc thái Phật giáo vào những câu chuyện ấy, nổi trội nhất là hạnh bố thí. Nói cách khác, khi giảng thuyết, những vị ấy thường cố gắng tiếp tục vận dụng những câu chuyện đã từng biết để minh họa cho ý pháp, làm cho bài thuyết giảng thực tế hơn, sống động và sâu sắc hơn. Lâu dần, những câu chuyện ấy được chọn lọc, biên tập và đưa vào Thánh điển thông qua khung cửa của truyền thống Jātaka.

2. Dấu chỉ văn hóa Ấn Độ cổ đại trong Jātaka
Trong Chuyện tiền thân có những chỉ dấu văn hóa của Ấn Độ thời cổ đại, cụ thể là những câu chuyện ngụ ngôn như Chuyện con mèo (trong phiên bản Jātaka là con chó rừng) giả dạng tu hành để ăn đàn chuột, chuyện con sư tử và con trâu vốn l bạn bị con dã can làm cho chia lìa và giết hại lẫn nhau, chuyện con khỉ khôn ngoan hơn so với con cá sấu. Những câu chuyện này vốn đã nằm sẵn trong những tác phẩm như Tantrākhyāyika, Pañcatantra, v.v... thuộc nền văn chương Ấn Độ cổ đại. Nói đúng hơn, mô-típ của những câu chuyện này có mặt khắp thế giới phương Đông lẫn phương Tây, vì vậy nguồn gốc rất khó xác định.60

Sau đây là Chuyện con mèo (Biḷārajātaka, số §128), kể lại chuyện con chó rừng giả dạng tu hành chơn chánh để lừa ăn gần hết đàn chuột.

Đầu đàn làmột con chuột thông minh sáng suốt với thân hình to lớn giống như heo con. Con chó rừng ma mãnh và kín đáo chọn một vị trí không quá xa tầm ngắm của đàn chuột rồi hàng ngày đứng trên một chân, mặt hướng về mặt trời và hứng gió, ngửi gió, hít gió vào. Con chuột đầu đàn nghĩ đây là bậc có giới hạnh nên tiếp cận và hỏi:

– Thưa Tôn giả, Tôn giả tên gì?
– Ta tên là Dhammika (Như Pháp).
– Sao Tôn giả không đứng trên bốn chân mà chỉ đứng một chân thôi?
– Nếu ta đứng bốn chân thì trái đất không thể chở nổi, do vậy, ta chỉ đứng một chân.
– Vì sao Tôn giả đứng lại há miệng?
– Ta không ăn gì khác, ta chỉ ăn gió mà thôi.
– Tại sao Tôn giả đứng hướng mặt về phía mặt trời?
– Ta đảnh lễ mặt trời.

Thốt ra những điều phi thường, siêu việt, con chó rừng lừa được con chuột đầu đàn và lựa thế ăn thịt từng con chuột trong đàn. Mỗi lần ăn xong, nó chùi miệng sạch sẽ rồi về đúng vị trí, đứng trên một chân và há miệng như cũ. Đàn chuột vơi dần, sinh nghi, con chuột đầu đàn chủ động đi tìm hiểu và biết rõ sự tình. Một trận đối đầu đầy kịch tính diễn ra, bộ mặt thật của con chó rừng, kẻ làm xấu đi hình ảnh ngọn cờ Chánh pháp bị phơi bày:

Ai yêu cờ Chánh pháp,
Bí mật làm điều ác,
Dụng ý để lường gạt,
Các loài sinh vật khác,
Giới cấm kẻ như vậy,
Được gọi thói con mèo.

Kết thúc có hậu. Con chó rừng gặt hái những gì mà nó đã gieo. Bậc Đạo sư nhận diện tiền thân: Thời ấy, con chó rừng là Tỷ-kheo lừa đảo, còn chuột chúa là Ta vậy.

3. Giao thoa với tác phẩm Tantrākhyāyika thuộc nền văn ha Ấn Độ cổ đi và Hy Lạp61

Chuyện lời gièm pha (Sandhibhedajātaka, số §349) nói về tình bạn giữa một con sư tử và một con bò mộng sẽ vô cùng bền vững nếu không có con chó rừng xuất hiện. Thuở ấy, con chó rừng rơi vào tình trạng không có thức ăn nên muốn ăn thịt con sư tử và con bò mộng bằng cách gây bất hòa giữa hai bên. Nó tới hầu hạ hai con kia và nói những lời gièm pha. Hai con vật cãi vã và đấu nhau chí mạng. Chờ cho đến khi cả hai đều chết, con chó rừng thong thả ăn thịt cả hai. Nhà vua nói lên bài kệ:

... Xảo gian thủ thuật khéo bày,
Phân chia bằng hữu lâu ngày kết thân,
Thú kia hèn kém nhất trần,
Nhưng bò, sư  tử phi thnh mồi ngon...

Sau đó, nhà vua nhặt lấy bờm, da, móng, răng của sư tử rồi quay về kinh thành. Bậc Đạo sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện tiền thân: Bấy giờ, Ta là vị vua nọ.

“Cáo mượn oai hùm” là một điển tích mà thời nào cũng có, trong thực tiễn và cũng hầu như không có biên giới giữa các nền văn hóa, tuy có nhiều phiên bản khác nhau. Chuyện tấm da sư tử (Sīhacammajātaka, số §189) nói về một con lừa khoác lên lưng bộ da sư tử và có lợi thế được ăn uống. Không may, một khi cất tiếng kêu, nó liền bị phát hiện, bị đuổi đánh gãy xương và tử vong.

Tiếng hí này không phải,
Tiếng sư tử hay cọp,
Cũng không phải tiếng beo,
Con vật ti tiện này,
Dù trùm da sư tử,
Cũng chỉ hí ti
ếng lừa.

Sau bài pháp thoại, bậc Đạo sư nhận diện tiền thân: Lúc bấy giờ, con lừa là Kokālika (một người tự khen mình), người nông phu hiền trí (người đã nhận ra đấy là con lừa) là Ta vậy.

Phiên bản Jātaka thì đó là da con sư tử, ngoài ra còn có những phiên bản khác của phương Đông cũng như phương Tây. Cụ thể, trong Tantrākhyāyika đó là da con báo đen, trong Pañcatantra và Hitopadeśa đó là da con hổ. Điều thú vị, Aesop là một người sống ở Hy Lạp vào thế kỷ VII TTL, chuyên kể những câu chuyện ngụ ngôn và có một bộ chuyện ngụ ngôn cùng tên với ông vào thời Hy Lạp cổ đại. Tác phẩm Ngụ ngôn của Aesop ấy lại cóchứa một phiên bản rất gần với phiên bản Jātaka: Con lừa khoác lên mình bộda con sư tử.

Mô-típ “ba-chọn-một” gần như không có biên giới giữa các nền văn hóa. Nói rõ hơn: Trong ba người thân chỉ được chọn ra một người để cứu. Ở đây, câu trả lời khôn ngoan của người phụ nữ đã cứu mạng được cả ba. Tác phẩm Rāmāyaṇa thuộc văn hệ Bà-la-môn có điểm nhấn là một tục ngữ Ấn Độ: “Trên đời mọi thứ khác đều dễ có hơn so với một người anh em ruột.” Ta có thể nhận diện khoảng giao thoa và tiếp biến văn hóa qua câu chuyện của Herodotus trong nền văn học Hy Lạp kể về người vợ của Intaphernes và câu chuyện của Sophocles về nàng Antigone.62 Chia sẻcùng một mô-típ ấy, Chuyện người đàn bà thôn quê (Ucchaṅgajātaka, số §67) nói về vua xứ Kosala đang chuẩn bị hành quyết ba người nông phu bị cáo buộc là đã cướp phá dân làng, bỗng có chuyện khác thường xảy ra: Một người phụ nữ chạy đến hoàng cung khóc kể thảm thiết xin một cái gì đó để che thân. Vua sai cho cô ấy một tấm áo, cô ấy không nhận tấm áo mà lại muốn một tấm chồng và nói rằng người chồng mới thực sự là vật che thân cho đàn bà; còn người đàn bà nào không có chồng, dù cho nàng ấy mặc áo quần đáng giá cả ngàn đồng tiền cũng chẳng khác gì mình trần thân trụi.

Chẳng khác dòng sông suối cạn khô,
Cũng vậy, mình trần thân lại trụi,
Vì không tùng, trúc cạnh đào tơ,
Nhìn xem quả thật nàng trơ trọi,
Dù có mười anh ru
ột một nh.

Khi nàng nhận diện được ba người thân đang bị nhà vua bắt là người chồng, anh trai và con trai, nhà vua ban cho nàng một ân sủng là nàng được chọn để cứu một trong ba người kia. Thật hài hước, người mà nàng chọn để cứu không phải là tấm chồng như mới đây nàng khóc lóc thảm thiết một mực xin cho được, mà người nàng chọn lại chính là người anh trai. Đối thoại với nhà vua, nàng trình bày lý lẽ rằng hai người kia có thể thay thế, nhưng anh trai thì không bao giờ có nữa. Rồi nàng lại ngâm nga:

Tìm kiếm chồng con thật dễ dàng,
Tha hồ chọn, họ đứng đầy đường,
Song tìm đâu được người anh nữa,
Dù khổ
 đau cho đến đon trường?

Kết thúc có hậu. Nhà vua đẹp ý phán: Nàng ấy nói chí lý!

Vua ra lệnh giao ba người đàn ông kia cho nàng, nàng liền đưa cả ba người ra về. Bậc Đạo sư nhận diện tiền thân: Người đàn bà và ba người đàn ông ngày nay cũng là người đàn bà và ba người đàn ông ngày trước và Ta chính là vị vua ấy.

4. Sự sâu sắc của Jātaka và sự gặp gỡ các chuyện cổ tích Đông Tây

Hài hước, thâm trầm, u mặc trong câu chuyện dưới đây nằm ở chỗ thế giới của loài người được nhìn bằng đôi mắt của con khỉ. Chuyện đáng chỉ trích (Garahitajātaka, số §219) nói về một con khỉ chúa vốn là vua của một bầy khỉ hoang dã, bị bắt, bị giam lỏng và phải phục vụ nhiều chục năm trong hoàng cung. Một hôm nọ, nhà vua thả tự do cho nó. Nó quay lại rừng, cả đám khỉ bề tôi vây quanh khỉ chúa và hỏi thăm sự tình như thế nào trong thế giới loài người trong ngần ấy năm dài. Con khỉ chúa lắc đầu, xua tay, nó không muốn nói nhưng cuối cùng vì áp lực của bầy khỉ nên nó phải nói một vài việc m àloài người hay làm như sau: “Loài người dù là Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn đều hay nói: ‘Đây là tài sản của tôi!’ Họ không hiểu tính vô thường làm cho mọi vật biến hoại. Các bạn hãy nghe hành động của những kẻ mù lòa ngu si ấy!” Rồi nó nói lên bài kệ:

Vàng ròng là của tôi!
Ngọc quý là của tôi!
Như vậy suốt ngày đêm,
Chúng rêu rao lớn tiếng,
Những người ngu si ấy,
Không nhìn đến Chánh pháp.
Trong nhà có hai chủ,
Một chủ không có râu,
Vú dài, có tóc bện,
Hai tai có đâm lỗ,
Được mua với nhiều tiền,
Làm khổ đau mọi người.

Nghe đến đấy bọn khỉ hết hồn chạy tán loạn, vừa bịt tai vừa hét lên: “Chớ nói nữa, chớ nói nữa, chúng tôi vừa nghe điều không đáng nghe!”

Kết thúc có hậu, sau bài pháp thoại ấy, vị Tỷ-kheo đắc quả Dự lưu. Bậc Đạo sư nhận diện tiền thân: Lúc bấy giờ, đàn khỉ là hội chúng của Như Lai, còn khỉ chúa là Ta vậy.

Câu chuyện trên cho thấy thấp thoáng chút u mặc của phong hóa Ấn Độ, phảng phất chút trầm tư của sắc thái Hy Lạp, quả thật việc xác định Đông hay Tây, Ấn hay Hy,63 đâu là gốc của câu chuyện là một việc không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, văn hóa phương Đông trên đại thể vẫn là nền văn hóa chủ đạo của Jātaka.

Một chỉ dấu rõ nét khác của nền văn hóa Ấn Độ là một số nhân vật của nền văn hóa cổ kính ấy xuất hiện và tái xuất hiện trong nền văn học Jātaka. Chuyện thiên nữ Alambusā (Alambusajātaka, số §523) và Chuyện Công chúa Niḷinikā (Niḷinikājātaka, số §526) kể lại chuyện chàng thanh niên ẩn sĩ Isisiṅga thuần khiết thanh tân, từ nhỏ đến lớn chưa hề biết đến nữ nhân.64 Lại có một nàng thiên nữ Alambusā xinh đẹp, tài năng và khôn khéo. Cả hai nhân vật đã có mặt trong thiên trường ca lịch sử Mahābhārata và Purāna thuộc thể loại kịch thơ của nền văn học Bà-la-môn cổ đại65 tái xuất hiện trong hình thái kệ tụng và được lồng vào trong những câu chuyện tiền thân.

Isisiṅga là một cậu bé sanh ra từ một con nai trong rừng núi trùng điệp hoang vu. Isisiṅga được vị ẩn sĩ nuôi lớn và truyền dạy các pháp thiền định. Vì sanh ra và lớn lên giữa chốn núi rừng hoang vắng, chỉlo công phu thiền định không có một ý niệm gì về người khác giới nên dù đã thành niên, ẩn sĩ Isisiṅga vẫn là biểu tượng cao nhất của sự trong sáng, tinh khôi và thanh khiết đúng nghĩa trong thế giới của những vị ẩn sĩ. Uy lực của sự trong sáng, tinh khôi và thanh khiết ấy66 gây chấn động, đặc biệt sự chấn động đã vượt lên mấy tầng trời, làm rung chuyển và lay động ngai vàng của Vua trời Đế-thích. Cảm thấy bị thách thức, Đế-thích ra lệnh cho thiên nữ Alambusā xuống phá hoại công hạnh của chàng thanh niên.

... Vậy nàng quả thật đóa hoa khôi,
Hãy bước lên đường, tố nữ ơi,
Dùng lực thần kia là mỹ sắc,
Buộc hiền nhân nọ phc oai trời...

Thế là giai nhân tuyệt sắc Alambusā nhận nhiệm vụ phải tiếp cận và chinh phục thanh niên ẩn sĩ Isisiṅga. Alambusā được trang điểm lộng lẫy và tinh tế của một tuyệt thế giai nhân với sự yểm trợ của đoàn tùy tùng thiện nghệ, am tường và thuần thục trong nhiệm vụ này. Trong rừng núi trùng điệp hoang vu, từ buổi sáng tinh mơ vị ẩn sĩ già đã đi vào rừng thiêng hái thuốc. Isisiṅga còn lại một mình thiền định giữa chốn thảo lư. Chuyện gì phải đến đã đến. Isisiṅga và Alambusā chạm mặt, nữ nhân đầu tiên mà ẩn sĩ Isisiṅga gặp được. Một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ và đầy sức mê hoặc đối với vị thanh niên ẩn sĩ xưa nay sống và tu luyện trong cảnh trí hoang sơ, với tất cả sự hồn nhiên, trong sáng, tinh khôi và thanh khiết. Những phút giây gay cấn bắt đầu, mỗi một tình tiết, mỗi một diễn tiến làmỗi một sự hồi hộp cho người nghe. Isisiṅga ngâm kệ hỏi thiên nữ kiều diễm Alambusā:

... Ai đó như tia chớp sáng ngời,
Rõ ràng như thể ánh sao mai,
Đôi tay đeo ngọc, hoa tai điểm,
Lấp lánh từ xa rực cả trời?
Như phấn chiên-đàn tỏa ngát hương,
Huy hoàng chẳng khác ánh triêu dương,
Yêu kiều vóc liễu thanh thanh dáng,
Tuyệt sắc cho ai ngắm ngắm nàng.
Dịu dàng, trong trắng với lưng thon,
Nhún nhảy nhịp nhàng, nhón gót son,
Yểu điệu thân nàng bao diễm lệ,
Làm ta say đắm cả tâm hồn...67
Trong muôn loài giữa cõi trần gian,
Ta chẳng thấy ai sánh kịp nàng,
Thân phụ là ai cùng quý tánh,
Ta mong nàng thổ lộ cho tường.

Trong lúc vị ẩn sĩ tán tụng nàng Alambusā từ bàn chân lên đến đỉnh đầu không sót đường tơ kẻ tóc nào, nàng vẫn giữ yên lặng. Và khi nghe chàng nói lời lẽ dài dòng như vậy, nàng nhận biết tâm trạng của chàng đã dao động đến mức nào rồi, bèn ngâm nga bài kệ:

... Sao chàng mãi hỏi chi vơ vẩn,
Chẳng ph
i đôi ta chỉ một mnh?...

Mạch lạc của câu chuyện lúc êm đềm du dương, lúc kịch tính, lúc vỡ òa. Diễn tiến của câu chuyện đang tiết điệu nhịp nhàng bỗng chuyển biến rẽ hẳn sang hướng khác. Kết thúc của câu chuyện ý nhị và thâm trầm như thế nào chỉ có người đọc trực tiếp, nghe trực tiếp thiên trường ca này mới cảm được. Tuy nhiên, mẫu số chung vẫn là một kết thúc có hậu với phần nhận diện tiền thân: Đến đây, bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại dành cho vị Tỷ-kheo kia và cuối phần giảng giải các Thánh đế, vị Tỷ-kheo ấy đắc Sơ quả (Dự lưu). Lúc bấy giờ, Alambusā chính là người vợ trước kia, Isisiṅga là vị Tỷ-kheo có tâm bất mãn này và đại ẩn sĩ cha chàng chính là Ta. Câu chuyện Alambusā ở trên là một điển hình cho việc chuyển thể những câu chuyện có sẵn trong nền văn hóa chủ lưu Bà-la-môn thời bấy giờ68 thành câu chuyện Phật giáo và đưa vào Thánh tạng.

5. Jātaka mang chức năng như một diễn đàn
Có những Jātaka tạo điều kiện hay làm nền cho những cuộc hội luận về triết học trong Upaniṣads (Áo ngha thư), những cuộc hội luận về lịch sử trong sử thi Mahābhārata, một trong hai bộ sử thi bằng tiếng Sanskrit nổi tiếng nhất của nền văn học Bà-la-môn thời cổ đại. Nói cách khác những Jātaka này chỉ có chức năng đơn thuần và duy nhất là khung sườn cho một diễn đàn hội luận để các nhân vật xuất hiện trò chuyện, tranh luận và giảng thuyết. Chuyện bậc Đại trí Nārada Kassapa (Mahānāradakassapajātaka, số §545)69 kể lại chuyện Vua Aṁgati của xứ Videha triệu tập ba vị đại thần để tham vấn. Đại tướng quân Alāta chỉ vẽ một cuộc chiến dữ dội và hài hước. Đại thần Sunāma lại bảo rằng không cần thiết phải có một cuộc chiến, tốt hơn là nên thưởng thức những tiếng đàn hát du dương, ngắm nhìn những vũ điệu nghê thường và còn có bao nhiêu là lạc thú. Đại thần Vijaya lại gợi ý rằng nhà vua nên nghe những lời đạo lý từ một vị ẩn sĩ tinh thâm hay một vị Bà-la-môn nói lên. Với những điều mà Đại tướng quân gợi ý, nhà vua cùng triều thần đến gặp vị ẩn sĩ lõa thể Guṇa Kassapa. Guṇa Kassapa tuyên bố thẳng thừng về giáo lý duy vật: “Không có quả báo của hành vi thiện ác, không có đời sau, không có đời trước, không có sư trưởng, mọi người đều bình đẳng và giống nhau, không có người đáng được kính lễ cũng như không có kẻ phải kính lễ người khác, không có các đức tính dũng mãnh hoặc can trường trong đời này, số phận đã an bài từ trước, không có bố thí.” Alāta tuyên bố rằng ông tín thọ những lời giáo huấn ấy và nói: “Ta nhớ lại những kiếp xa xưa khi ta là một đồ tể, một người thợ săn và đã giết rất nhiều sanh mạng, thế mà kiếp này ta lại sanh vào một gia đình danh giá được kính trọng và hiện giờ đang là một vị đại tướng.” Đồng thuận với Alāta, một người nô lệ tên Bījaka đang có mặt ở đó nói: “Trong một kiếp quá khứ tôi là một người tốt và rộng lượng, thế mà tôi lại tái sanh làm con trai của một kỹ nữ và giờ đây là một người nô lệ. Tôi đã thua canh bạc kiếp người, Alāta đã chiến thắng vì đã khôn khéo khi chơi canh bạc này.”

Vua Aṁgati bị thuyết phục bởi những lời như vậy nên khởi sự một cuộc sống hưởng thụ mọi sự sung sướng, và tâm lúc nào cũng ngh đến lạc thú nên đã đểvương quốc cho những người khác cai trị. Một nhân vật khác lại xuất hiện, đó là Rujā, cô con gái tốt bụng và thành tâm của nhà vua. Rujā tuyên dương Chánh pháp: “Người nào nghe theo kẻ xấu quấy, người đó trởthành xấu quấy. Giống như chiếc thuyền của một thương nhân chở quá nặng chìm xuống nước, cũng vậy một người chìm xuống địa ngục khi đã gánh vác một gánh quá nặng vì chất đầy tội lỗi. Rồi Sujā kể lại kiếp quá khứ là một người thanh niên trẻ tán tỉnh nhiều phụ nữ, sau đó tái sanh nhiều lần vào thế giới của người nam, của những loài thú và rơi vào địa ngục, chịu đựng hình phạt khốc liệt. Lúc ấy, từ trên cõi trời, vị thiên tên là Nārada hiện xuống, và như Rujā, tuyên thuyết Chánh pháp: “Có nghiệp và có thế giới khác.” Tuy nhiên, nhà vua nói: “Nếu có thế giới khác, ngươi hãy đưa cho ta 500 thỏi vàng và ta sẽ trả lại cho ngươi 1000 thỏi vàng trong thế giới khác đó.” Nārada trả lời: “Ta chắc chắn sẽ đưa cho ngài 500 thỏi vàng nhưng ai sẽ bảo đảm với ta rằng ngài sẽ hoàn trả lại cho ta khi ngài còn phải ở trong địa ngục? Ngay cả trong đời này, người ta chỉ cho người đáng tin cậy mượn tiền.” Rồi Nārada miêu tả cặn kẻ cảnh địa ngục và những hình phạt trong đó, kết luận bằng một minh dụ rằng thân thể con người như một cỗ xe. Cuối cùng, Nārada cảm hóa được nhà vua quay về với Chánh pháp.

V. JĀTAKA TRONG PHẬT GIO ĐI THỪA VSỰ BN ĐA HA

1. Hình ảnh Bồ-tát trong Jātaka với Phật giáo Đại thừa
Mối liên quan giữa Jātaka và Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo phát triển đã thu hút sự chú ý của những học giả như Bimala Churn Law và Ananda Salgadu Kulasuriya. Sự chú ý này phần nào có thể đã được khơi gợi từ ánh nhìn của Edward Bytes Cowell vào cuối thế kỷ XIX. Tập chuyện Jātaka do E. B. Cowell biên tập năm 1895 viết: “Bản thân Jātaka dĩ nhiên là có tác dụng gây phấn chấn vì đó là những biểu mẫu đặc biệt của nền văn học Phật giáo, nhưng điều gây phấn chấn hơn cả lại nằm ở mối liên quan rất riêng giữa Jātaka và văn hóa dân gian.”70 Phấn chấn ở đây có nghĩa là một dạng cảm xúc tôn giáo, một dạng năng lượng tích cực và hướng thượng cần được nuôi dưỡng hay huân tu thường xuyên.

Giáo lý dễ trình bày, dễ hiểu, dễ tín thọ và dễ phụng hành nhất chắc chắn không phải là giáo lý Tánh không (Śūnyatā) hay Trí tuệ Bát-nhã (Prajñāpāramitā) mà là giáo lý Nhân quả được triển khai từ nguyên lý Nghiệp (Karma), thông qua những hành vi đạo đức (sīla) cụ thể. Hành trạng của vị Bồ-tát (P. Bodhisatta, S. Bodhisatva) trong những kiếp sống xưa kia được xem là mẫu mực về đạo đức và trí tuệ. Trên cuộc hành trình dài nhiều A-tăng-kỳ kiếp, để đạt đến Phật quả, vị Bồ-tát sanh vào đời dù ở hoàn cảnh nào, vị thứ xã hội ra sao vẫn thể hiện được những phẩm chất như hy sinh, can đảm, tốt bụng, thông minh hay trí tuệ đã đạt đến độ siêu phàm.

Vị hành giả trong Jātaka không canh cánh trong lòng lý tưởng A-la-hán với mục tiêu cần đạt đến là cảnh giới Niết-bàn theo nghĩa truyền thống. Vị hành giả trong Jātaka hướng về lý tưởng Bồ-tát, cụ thể là cứu cái khổ mà vị ấy đang tiếp xúc, cái khổ đang xảy ra trong thực tế cuộc sống của vạn loại sanh linh, nhà Phật gọi là chúng sanh. Thính chúng hay đối tượng của dạng Phật giáo Đại thừa hay dạng Phật giáo phát triển phần nào phản ánh qua hình ảnh của đối tượng mà vị Bồ-tát cứu độ trong câu chuyện tiền thân nên mặc nhiên đã hình thành mối dây cảm xúc tuy vô hình mà vững chắc.

Đức độ được thể hiện qua những hạnh lành của vị Bồ-tát đều đạt đến độ viên mãn nên còn được gọi là Ba-la-mật (Pāramitā); tuy nhiên, hạnh bố thí vẫn nổi bật nhất và dễ lay động lòng người nhất, đặc biệt đối với những người bình thường của mọi tầng lớp xã hội. Điều này góp phần giải thích lý do tại sao Phật giáo trong Jātaka không mặn mà với tiêu chí nguyên chất hay thuần khiết mà lại thiên về dạng Phật giáo phát triển theo thời đại và quốc độ với lý tưởng được thể hiện bằng tiêu ngữ: “Phục vụ chúng sanh là thiết thực cúng dường chư Phật.” Hai câu chuyện tiêu biểu cho đỉnh cao của hạnh bố thí là Chuyện Đại vương Sivi (Sivijātaka, số §499) và Chuyện Ðại vương Vessantara (Vessantarajātaka, số §547).

Thính chúng của Phật giáo dân gian là một tập thể bao gồm những nhóm người vô cùng đa dạng về bối cảnh xuất thân, về nền văn hóa được un đúc sẵn, về ngành nghề chức nghiệp và về địa vị xã hội. Tất cả đều là những biến số lớn và vô cùng phức hợp. Để đáp ứng được yêu cầu càng lúc càng cao của thính chúng, những nhà phát triển Jātaka đã tăng dần về số lượng và độ dài của những câu chuyện. Càng về sau những câu chuyện càng dài và số kệ tụng cũng theo đó mà gia tăng với những con số đáng kinh ngạc. Chuyện Đại vương Vessantara có đến 786 khổ kệ, nếu tính mỗi khổ kệ thông thường có 4 câu, chúng ta sẽ có 3.144 câu kệ.71 Từ những câu chuyện của một vài kiếp chót trong kinh tạng truyền thống, tức 4 bộ Nikāya đầu tiên, ở thời điểm xuất phát, Jātaka đã tăng dần số lượng của kiếp sống quá khứ trong những thời kỳ sau đó cho đến khi số kiếp sống không còn đếm được, hay vô số kiếp liên quan đến tổng số những câu chuyện tiền thân, nghĩa là con số 547 hay 550 không phải là con số cuối cùng mà chỉ là con số tạm dừng vào thời điểm tập Jātaka được cơ cấu vào Thánh điển.

Không chỉ có nhu cầu tăng số lượng, tăng độ dài của những câu chuyện mà còn có nhu cầu tăng độ phong phú, đa dạng, đa sắc thái và đa biến hóa liên quan tới nhân thân của Bồ-tát. “Đức Cồ-đàm được gọi là Bồ-tát cho đến khi Ngài đạt được giác ngộ; không chỉ (là Bồ-tát) trong kiếp chót ở cõi trần mà còn trong vô số kiếp, những kiếp đó có khi là con người, có khi là con thú, có khi là vị thần, vị Bồ-tát đều đã trải qua trước khi Ngài được tái sanh lần cuối vào hoàng cung dòng họ Thích-ca.”72 Ananda Salgadu Kulasuriya đã liệt kê những dạng nhân vật mà Bồ-tát tái sanh vào: Vua chúa, hoàng tử, quan đại thần, thương nhân, gia chủ, nông dân, người phiêu lưu hồ hải và vị khất sĩ du phương; các loài chim, các loài thú và các dạng thần rừng, quỷ, thần, hồn ma sống trên cây và dưới hồ nước, hiện thân của chân lý và trí tuệ của các thời đại.73

2. Jātaka với Phật giáo quần chúng

Phật giáo dân gian không ưa chuộng các kiểu lập luận, học thuyết này hay triết thuyết kia, không ưa chuộng các mạch suy tư về giáo lý khúc chiết cao siêu. Trái lại, Phật giáo dân gian ưa chuộng hình ảnh thực tế, cách diễn bày trực tiếp để tạo nên cảm xúc thánh thiện và thiêng liêng. Đó chính là chỗ đắc địa của nghệ thuật tạo hình. Truyền thống Jātaka đã cung cấp cho nghệ thuật tạo hình các đề tài đa dạng khác nhau, các hình tượng nhân vật phong phú từ muôn thú đến cỏ cây và đủ loại cốt truyện để các nghệ nhân thỏa sức miêu tả và biểu đạt. Mục tiêu là giúp con người có thể rời khỏi những thứ bình phàm thường nhật, hướng tâm hồn đến cảnh giới thiện lương siêu vượt. Tác động ngược lại, nghệ thuật đã làm cho những câu chuyện tiền thân có hình dáng và đường nét, màu sắc và phong thái, ắt hẳn là sống động hơn để khách hữu duyên vừa thưởng lãm cái đẹp của nghệ thuật vừa thấm dần những bài học đạo lý. Nói gọn, Jātaka dưới hình thái những câu chuyện được ghi nhớ và kể lại vốn là công cụ chuyển tải đạo Phật một cách hữu hiệu; giờ đây Jātaka lại được nghệ thuật tạo hình chắp cánh nên càng trở nên trực quan và hữu hiệu hơn.

Các ngành nghệ thuật như phù điêu, bích họa, tạo tượng... cho chúng ta thấy chỉ dấu của việc bản địa hóa ngay trong giai đoạn xuất phát của dòng lịch sử phát triển của Jātaka. Nhiều Jātaka vốn là những câu chuyện nằm sẵn nhiều đời trong kho tàng văn học của những nền văn minh lớn, cụ thể là nền văn minh Ấn Độ. Phật giáo đã kế thừa, tiếp biến và khai thác từ kho tàng chung ấy như chúng ta đã biết khi nói về những khoảng giao thoa nơi mà đạo lý Phật giáo vốn là đạo lý Ấn Độ, câu chuyện Phật giáo vốn là câu chuyện Ấn Độ.

Về phương diện minh triết, Phật giáo đã nâng đạo lý trong những câu chuyện ấy lên tầm cao mới, đạt đến độ viên mãn và vì vậy mà trở thành giáo lý đặc trưng của nhà Phật. Về phương diện câu chuyện, ngay từ khâu chọn lựa, Phật giáo đã có những tiêu chí nhất định. Kho tàng chung ấy chứa đầy những yếu tố mê tín, ma quái và thần quyền, như đã nói, khi Phật giáo chọn lựa để thừa tiếp, những yếu tố ấy bị Phật giáo loại bỏ. Sau khi chọn lựa, những nhà phát triển Jātaka cũng ra sức gia công để nâng cấp câu chuyện về cả hình thức văn chương lẫn nội dung tư tưởng. T. W. Rhys Davids trong tác phẩm Buddhist India xuất bản lần đầu năm 190374 đã trình bày mở rộng những điều mà ông đã nói năm 1878:75 

“Tập Jātaka mà chúng ta đang có chỉ là một phần của những gì được lưu giữ. Tập sách này không chứa tất cả câu chuyện tiền thân đã từng lưu hành trong cộng đồng Phật giáo thời kỳ đầu của nền văn học Jātaka. Chắc chắn là như thế. Nhưng tôi (T. W. Rhys Davids) mạo muội đi xa hơn một chút và gợi lên rằng nhân vật trong 10 câu chuyện Jātaka đầu tiên này, trong hình dạng của phiên bản tiền Jātaka, cho phép chúng ta truy ngược dòng lịch sử đến chỗ vượt ngoài phạm vi của toàn bộ nền văn học Phật giáo. Không có nhân vật nào mang đặc nét Phật giáo. Có lẽ, tất cả đều được cải biến ít nhiều cho phù hợp với đạo đức Phật giáo. Hầu hết những câu chuyện khác đều như vậy, ngay cả câu chuyện Vua Đại Thiện Kiến, mạch lạc chính cũng đơn giản là một thần tích nói về việc thờ phụng mặt trời. Những mạch chuyện còn lại thuộc về chuyện dân gian tiền Phật giáo. Không có gì đặc nét Phật giáo ngay cả đạo lý mànhững câu chuyện này truyền đạt. Như vậy, khi nói về chất Phật liên quan tới những câu chuyện ấy, trong hình dạng xa xưa nhất của chúng, chỉ nói về cách chọn lựa được thực hiện. Nhiều lắm những câu chuyện dân gian khác dĩ nhiên là đầy ắp sắc thái mê tín, sắc thái không được Phật giáo chọn lựa. Đạo lý dĩ nhiên thuộc dạng rất giản dị. Đó là sữa cho các em bé. Câu chuyện này rõ ràng có gốc là thần tích Vua Đại Thiện Kiến. Trong hình dạng Jātaka sau này, câu chuyện có trọng tâm là tính chất vô thường của tất cả các pháp thế gian, là bài học cổ xưa về tính phù phiếm của thế giới. Trong hình dạng xa xưa hơn, dạng (nằm trong) Thánh điển, câu chuyện còn cótrọng tâm lànhững thiền chứng (jhāna), có lẽ thuộc thời tiền Phật giáo và các Phạm trú (Brahma vihāra), chắc chắn là đặc nét Phật giáo (mặc dù ý niệm tương tự cũng có mặt trong Yoga Sūtra thời kỳ sau). Đây lànhững nội dung sâu xa và khó nắm bắt hơn nhiều.”76

3. Jātaka với nghệ thuật tạo hình
Những câu chuyện tiền thân ấy đi vào thế giới của nghệ thuật tạo hình, chúng ta lại thấy chỉ dấu của việc bản địa hóa. Việc chọn nội dung cho những bức phù điêu không chỉ là chỉ dấu của việc bản địa hóa mà còn là chỉ dấu của tâm thái cận nhân tình trong mối tương tác giữa Phật giáo với người dân khi thực hiện những công trình tín ngưỡng. Tất cả đều có chủ hướng là phục vụ cho mục tiêu truyền bá Chánh pháp, đem lại an vui hạnh phúc cho số đông sanh loại, hữu hình và vô hình.

Xa xưa nhất còn ghi nhận được là những bức phù điêu ở di tích Bharhut và Sanchi thuộc Ấn Độ cổ đại. Những ngôi tháp cổ được bao bọc bởi rào chắn làm bằng đá nguyên khối lớn và kiên cố với nhiều bức phù điêu miêu tả những phân cảnh trên đó có tựa đề của những câu chuyện tiền thân được viết bằng tự dạng của thế kỷ III TTL. Những phù điêu khác không có tựa đề nhưng những dòng chữ có cùng tự dạng. Có 27 phù điêu được nhận diện là những phân cảnh minh họa cho tập chuyện Jātaka đang hiện hành thời ấy và 23 phù điêu chưa nhận diện được, trong đó chắc chắn có những phù điêu minh họa cho những câu chuyện tiền thân được lưu hành trong dân chúng thuộc địa bàn nhưng không được đưa vào Thánh tạng.77

4. Jātaka trong các bức phù điêu tại di tích Bharhut và các nơi khác

Năm 1903, T. W. Rhys Davids đã liệt kê đề tựa của 28 phù điêu ở di tích Bharhut được khắc nổi và tên của Jātaka tương ứng trong tập Jātaka Pāli. Chúng ta cũng biết thêm rằng trước đó vào năm 1897 một bảng liệt kê tương tự cũng đã được công bố.78

Thông tin chi tiết về 28 bức phù điêu gồm (1) Số hiệu của phù điêu theo nhà khảo cổ học Cunningham, (2) tựa đề được khắc trên phù điêu, (3) sốJātaka theo phiên bản Fausböll, (4) tên câu chuyện theo PTS. Khi (5) tựa Jātaka bằng tiếng Việt tương ứng được đưa vào, chúng ta cóbản liệt kê như dưới đây:

Bảng 02

Stt

Số hiệu

Tựa trên phù điêu

Số hiệu

Tựa theo PTS

Tựa tiếng Việt

1

XVIII

 

 

Vitura Punakiya Jātaka

545

Vidhura Panḍita Jātaka

Chuyện bậc Đại trí Vidhura

2

XXV

Fig

1

Miga Jātaka

12

Nigrodhamiga Jātaka

Chuyện con nai Nigrodha

3

2

Nāga Jātaka

267

Kakkaṭa Jātaka

Chuyện con cua

4

3

Yavamajhakiya Jātaka

546

Episode in Mahāummagga Jātaka

Câu chuyện đàn bò trong Chuyện đường hầm vĩ đại

5

4

Mugapakaya Jātaka

538

Mūgapakkha Jātaka

Chuyện Vương tử què câm

6

XXVI

5

Latuvā Jātaka

357

Laṭukikā Jātaka

Chuyện chim cút

7

6

Chadanatiya Jātaka

514

Chaddanta Jātaka

Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta

8

7

Isisingiya Jātaka

523

Alambusa Jātaka

Chuyện thiên nữ Alambusā

9

8

Yaṃ bamaṇo avayesi Jātaka

62

Aṇḍabhūta Jātaka

Chuyện cô gái trên lầu bảy tầng

10

XXVII

9

 

206

Kuruṅgamiga Jātaka

Chuyện con nai núi

11

10

 

349

Sandhibheda Jātaka

Chuyện lời gièm pha

12

11

Hanasa Jātaka

32

Nacca Jātaka

Chuyện múa ca

13

12

Kinara Jātaka

485

Candakinnara Jātaka

Chuyện đôi ca thần Canda

14

13

 

181

Asadisa Jātaka

Chuyện Hoàng tử Asadisa

15

14

 

461

Dasaratha Jātaka

Chuyện Đại vương Dasaratha

16

XXXIII

15

 

407

Mahākapi Jātaka

Chuyện đại hầu vương

17

XLI

1.3

 

324

Cammasāṭaka Jātaka

Chuyện thầy tu mặc áo da

18

XLIII

2.8

Isimigo Jātaka

372

Migapotaka Jātaka

Chuyện chú nai con

19

XLIV

2

Janako Rājā Sivali devī

539

Mahājanaka Jātaka

Chuyện Đại vương Mahājanaka

20

XLV

5

 

46&268

Ārāmadūsaka Jātaka

Chuyện kẻlàm hại vườn

21

7

 

42

Kapota Jātaka

Chuyện chim bồ câu

22

XLVI

2

Uda Jātaka

400

Dabbhapuppha Jātaka

Chuyện Dabbhapuppha

23

8

Secha Jātaka

174

Dūbhiyamakkaṭa Jātaka

Chuyện con vượn lừa dối

24

XLVII

3

Sujato Gahuto Jātaka

352

Sujāta Jātaka

Chuyện chàng Sujāta

25

5

Biḍala Jātaka Kukuta Jātaka

383

Kukkuṭa Jātaka

Chuyện kê vương

26

XLVIII

2

Maghādeviya Jātaka

9

Makhādeva Jātaka

Chuyện Vua Makhādeva

27

7

Bhisa Haraniya Jātaka

488

Bhisa Jātaka

Chuyện củ sen

28

L

 

 

547

Vessantara Jātaka

Chuyện Đại vương Vessantara

Đất nước Ấn Độ vừa là nơi phát tích vừa là một cường quốc Jātaka khi đã đưa truyền thống Jātaka đến khắp nơi trong nước với những trọng điểm như Bharhut đã nói ở trên, như Sanchi, Gayā, Amaravatī, Ajanta, Ellora; sau đó lan tỏa ra thế giới như trường hợp Borobudur ởJava (Indonesia), Pagan (Miến Điện) vàSukhodaya (Thái Lan). Trong Bch khoa Ton thư Tôn gio và Đo đức, tập VII,79 có đoạn:

“Quả vậy, những câu chuyện tiền thân đã cung cấp nhiều đề tài cho điêu khắc và hội họa xuyên suốt mọi thế kỷ, xuyên qua mọi đất nước Phật giáo. Sự thật ấy cho chúng ta thấy độ biến mãn của Jātaka tại Ấn Độ như ở Bharhut, Sanchi và Bodhgaya vào thế kỷ III-II TTL, ở Amaravatī vào thế kỷ II TTL, sau đó là ở Ajanta. Hàng trăm phù điêu với các phân cảnh của Jātaka được sử dụng để trang hoàng cho những ngôi đền thờ nổi tiếng hầu hết đều dựa trên những thần tích trong bộ chuyện Lalitavistara Sūtra (Phổ Diệu kinh, 普曜經)80 như Borobudur xứ Java vào thế kỷ IX, các ngôi chùa xứ Pagan, đất nước Miến Điện vào thế kỷ XIII và xứ Sukhodaya ở đất nước Thái Lan vào thế kỷ XIV.”

5. Ảnh hưởng của Jātaka từ Trung Á đến các nước lân cận
Nhìn bao quát hơn nữa, chúng ta thấy từ đất nước Ấn Độ, truyền thống Jātaka đã lan tỏa đến những khu vực địa lý rộng lớn từ Trung Á đến Đông Nam Á, từ Tây Âu đến Viễn Đông.81 Trong đó những nước góp phần đáng kể vào việc bảo tồn, truyền bá và ghi dấu ấn riêng vào truyền thống Jātaka là Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, và những nước, khu vực khác như Lào, Campuchia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Việt Nam.

Từ Trung Á đến Đông Nam Á, từ Tây Âu đến Viễn Đông ngày xưa, những nơi mà Jātaka đã ảnh hưởng đến, có nơi đã ảnh hưởng đến độ thấm đẫm trong lòng người dân thời ấy. Hình ảnh thường thấy là một đám đông dân chúng ngồi xung quanh một nhà Sư đang kể chuyện, câu chuyện thu hút tâm trí của họ khiến cho lòng họ đắm chìm vào thế giới linh thánh xa xưa, khi đức Phật còn là vị Bồ-tát. Những câu chuyện ấy được kể trong những đêm trăng rằm, những ngày Bố-tát và những lễ hội lớn... Nhiều người rướm lệ khi ngồi quanh đống lửa bập bùng thâu đêm nghe câu chuyện hy sinh lay động lòng người của vị Bồ-tát. Đối với tâm hồn chất phác của những người dân sẵn tánh thiện lương, Chuyện Tiền thân không phải là một thể loại văn chương hay một câu chuyện bình phàm mà là những gì vừa hiện thực vừa thánh thiện đang xảy ra ngay trong thế gian này. Tuy việc hấp thụ có nhiều mức độ khác nhau nhưng khi ở mức độ như vậy, những câu chuyện tiền thân có khả năng tác động vào tâm hồn, thấm vào tận căn cốt của mỗi người.82

6. Ảnh hưởng Jātaka tại Miến Điện

Ở Miến Điện, vô cùng phổ biến từ thế kỷ IV-XIII là một phiên bản hiện đại của Nāradajātaka. Nāradajātaka được đồng nhất với câu chuyện Bậc Đại trí Nārada Kassapa, số §545. Mặc dầu, câu chuyện thu hút sự chú ý của những học giả ngang qua nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc, nhưng cần ghi nhận rằng câu chuyện tiền thân này còn được các bia ký đương thời dẫn chiếu tới. Ngoài ra, về mặt văn học phải kể tới một bộ chuyện tiền thân có tên là Paññāsajātaka (Năm mươi Chuyện Tiền thân) phổ biến rộng rãi ở Miến Điện được xem là hoa trái của quá trình địa phương hóa.83 Lịch sử Phật giáo Miến Điện cho chúng ta biết rằng khoảng thời gian 1054-58, Vua Anuruddha (Miến Điện) chiếm được Thaton, thủ đô của người Mon, đã giải vua người Mon là Makuta về Pagan, cùng mang về các phiên bản Tam tạng Thánh điển, nhiều nhà Sư và nghệ nhân. Bản tường thuật xưa nhất của người Mon về tập Jātaka lớn được đề cập trên bia ký Makuta’s Pandit được tìm thấy ở chùa Schwezagon, Thaton.84

Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan đến Jātaka ở Miến Điện bao gồm hầu hết những hình thái nghệ thuật biểu đạt cổ đại gồm có bia đá, kiến trúc, điêu khắc, tượng đất nung, bích họa. Nổi bật có khi là những pho tượng đất nung, có khi là những bức bích họa về toàn bộ 560 Jātaka. Ví dụ, “Chuyện không lỗi lầm” (Apannakajātaka, số §1) và “Chuyện bậc Hiền trí Mātaṅga” (Mātaṅgajātaka, số §497) ở chùa Ānanda, xứ Kyanzittha; Mātaṅgajātaka (số §497) ở chùa Đông Tây Petika; “Chuyện lộc vương Rohanta (Rohantamigajātaka, số §501) ở chùa Gubyaukgyi xứ Myinpagan; “Chuyện vấn đáp của vị thiên” (Devatāpañhajātaka, số §350) ở chùa Abeyadanā; “Chuyện Trưởng lão Samiddhi” (Samiddhijātaka, số §167), “Chuyện con vẹt Rādha” (Rādhajātaka, số §198) ở chùa Pyatsa Shwe và“Chuyện lộc vương Rohanta” (Rohantamigajātaka, số §501) ở chùa Mingalazedi. Tập Jātaka này không những được biểu đạt bằng nghệ thuật điêu khắc hay bích họa mà còn kèm theo những đoạn kinh văn, cụ thể như Samiddhijātaka dẫn chiếu tới câu chuyện vị Thánh giả là một ẩn sĩ; trong Rādhajātaka - Ngài là một loài két, và trong Rohantamigajātaka - vị Phật tương lai là một con nai vàng.85

7. Ảnh hưởng Jātaka tại Tích Lan
Khi Ấn Độ là vùng đất phát tích để tập Jātaka dần dần hình thành và đạt đến chuẩn mực Thánh điển thì Tích Lan là vùng đất phong nhiêu kế thừa, góp phần cho truyền thống Jātaka được giữ gìn và phát huy cao nhất. Về phương diện văn học, như đã được trình bày, toàn bộ tập Jātaka trong Thánh điển Phật giáo hiện nay vốn là tập kinh tiếng Pāli được truyền sang đất nước Tích Lan, rồi được dịch toàn bộ sang tiếng bản địa Sinhalese trừ phần kệ tụng; sau đó, lại được dịch ngược trở lại tiếng Pāli và trở thành tập Jātaka mà chúng ta đang có. Vì vậy, phần kệ tụng trước và sau khi dịch, lần một và lần hai, đều không thay đổi nhưng phần văn xuôi có khác. Khả năng xảy ra gần như đương nhiên vì trong quá trình của hai lần dịch như vậy hẳn là đã có nhiều cải biến, thêm thắt, thậm chí là biên tập lại toàn bộ.

Về phương diện quảng bá, cũng như các nước Nam Á và Đông Nam Á khác, dưới ảnh hưởng sâu đậm của lý tưởng Bồ-tát, người ta thường thấy những câu chuyện tiền thân tại các ngôi chùa ở Tích Lan được biểu đạt bằng hình thức này hay hình thức khác. Không những ở các đô thị lớn, những cộng đồng dân cư tập trung đông đảo mà ngay cảở những vùng nông thôn, làng mạc vẫn có những nhà Sư đứng ra chủ trương, dẫn dắt và tạo cảm hứng để các họa sĩ, nghệ nhân địa phương biểu đạt hình tượng những vị Bồ-tát từ truyền thống Jātaka, cũng có trường hợp các Tăng sĩ tự tay thực hiện.86 Những điều trên làm cho chúng ta không cảm thấy ngạc nhiên khi biết rằng Pháp Hiển, một trong những nhà chiêm bái vượt qua cung đường ngàn dặm từTrung Hoa đến Tích Lan vào năm 400 đã mục kích tại chùa Abhayagiri (Vô Úy Sơn),87 ngôi chùa thờXá-lợi răng Phật, 500 thân tướng mà vị Bồ-tát từng tái sanh trong tiền kiếp. Pháp Hiển ấn tượng nhất là vị Bồ-tát trong thân tướng một tia chớp, một con voi chúa và một con nai.88 Số lượng lớn những bản thảo Jātaka nằm rải rác nơi này nơi kia khắp đất nước Tích Lan là một chỉ dấu cho thấy độ phổ biến của truyền thống Jātaka. Ngày nay, những chùa chiền, tự viện ra công biên chép và in ấn Jātaka cũng như kinh điển nói chung, đã góp phần đáng kểvào việc nâng cao thói quen đọc sách của người dân.89

8. Ảnh hưởng Jātaka tại Thái Lan

Có một khoảng cách địa lý nhất định đối với đất nước Ấn Độ so với Tích Lan và Miến Điện, cho nên việc Thái Lan phát triển Jātaka dưới hình thức phù điêu trễ hơn. Tuy nhiên, truyền thống Jātaka Thái Lan vẫn có độ phong phú đáng kể từ thế kỷ XIV. Hàng trăm bức phù điêu biểu đạt những phân cảnh của các câu chuyện tiền thân được dùng để trang trí cho những ngôi chùa nổi tiếng ở nhiều nơi,90 nổi trội là xứ Sukhodaya vào thếkỷ XIV.91 Hầu hết nội dung của những bức phù điêu ấy đều dựa vào Lalitavistara Sūtra, một tác phẩm thiêng liêng bậc nhất viết bằng ngôn ngữ Sanskrit thuộc hệ kinh điển Phương quảng của Phật giáo Phát triển.92 Sau khi Thánh điển Phật giáo đã hoàn thành, chúng ta biết rằng văn học Jātaka vẫn tiếp tục phát triển với những tập Jātaka thời hậu Thánh điển, cụ thể như bộ Paññāsajātaka mà cả ba nước Thái Lan, Lào và Campuchia cùng nhau chia sẻ, trong đó đáng chú ý làSudhanajātaka (số 2).93 Câu chuyện này được học giảLouis Finot nhắc đến trong bài viết “Recherches sur la Littérature Laotienne” (Nghiên cứu Văn học Lào) do Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội xuất bản năm 1917.

Ở Đông Nam Á, trong tác phẩm La Version Mône du Nārada Jātaka (Bản dịch tiếng Mône của Bổn sanh Nārada), xuất bản ở Saigon năm 1954, Pierre Dupont đã đề cập đến một phiên bản mới của Nāradajātaka (phiên bản Pāli cổ điển là Mahānāradakassapajātaka, số §545), một trong 10 câu chuyện làm nên Mahānipātajātaka. Đó là những câu chuyện rất phổ biến ở Miến Điện từ thế kỷ IV-XIII và được chuyển tải thông qua nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc; chúng còn được những bia ký thời đại ấy đề cập đến. Cần ghi nhận rằng Pagan, kinh đô của Miến Điện từ thế kỷ XI-XIII là nơi mà hầu hết dấu vết của Phật giáo Mon được tìm thấy, cụ thể là những bia ký bên cạnh các di tích kiến trúc và điêu khắc, tượng đất nung và bích họa.

9. Ảnh hưởng Jātaka tại Lào
Trong nền văn học Pāli ở Lào lại có thêm một tập Jātaka bản địa được xem là hoa trái của quá trình giao thoa tiếp biến thậm chí là hòa vào nhau giữa văn hóa Phật giáo và văn hóa dân gian Đông Nam Á.94 Sự thật, đa phần những câu chuyện trong tập Jātaka ấy hầu như đều do chế tác mà có nên độ chính thống tông truyền rất hạn chế khi so với tập Jātaka trong Thánh tạng. Tuy nhiên, điều ấy không làm giảm sút giá trị của nhận thức rằng những câu chuyện ấy đã là thành tố quan trọng của nền văn học dân gian và có vai trò vô cùng mật thiết trong việc định hình phong thái sống cho người dân cũng như xây dựng một thế giới quan, vũ trụ quan cho những cộng đồng dân cư nơi mà tập Jātaka ấy lưu hành.95

10. Ảnh hưởng Jātaka có tầm châu lục
Một câu chuyện tiền thân thi vị, “Chuyện con thỏ” (Sasajātaka, số 316) có độ phổ biến hay độ trùng hợp đáng kinh ngạc. Một con thỏ hiền trí đã nhảy vào đống lửa để tặng thân thể của mình cho người khách:

Bảy cá hồng tôi đã gọn mang...

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về sự cúng dường vật dụng cho các Tỷ-kheo.

Một người chủ đất nọ tại Xá-vệ cung cấp đủ mọi thứ cần thiết cho Tăng đoàn, đứng đầu là đức Phật. Ông ta dựng một cái rạp ở trước cửa nhà ông rồi mời các Tỷ-kheo cùng đức Phật là vị dn đầu, đến ngồi vào chỗ trang nghiêm đã chuẩn bị sẵn và cúng dường các vị đủ mọi thức ăn cao lương thượng hạng. Ông còn nói:

– Ngày mai, xin quý vị trở lại.

Ông khoản đãi họ trọn một tuần và đến ngày thứ bảy, ông dâng cúng đức Phật cùng năm trăm vị Tỷ-kheo của Ngài đủ mọi thứ vật dụng cần thiết. Vào cuối bữa tiệc, bậc Ðạo sư nói lời tùy hỷ công đức:

– Này cư sĩ, ông tạo sự tha lòng mãn ý do sự bố thí này, thật là đúng lý. Vì đây là một truyền thống của hàng trí giả ngày xưa, những vị đã hiến cả thân mạng mình cho bất cứ khành khất nào mà họ gp, họ còn cho những kấy ăn cả thịt của chính họ nữa.

Rồi do thỉnh cầu của gia chủ, Ngài kể một chuyện đời xưa.

Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra là một con thỏ sống trong một khu rừng. Một phía rừng này là chân một ngọn núi, ở phía kia là một con sông và ở phía thứ ba là một ngôi làng biên địa. Thỏ có ba bạn: Một con khỉ, một con chó rừng và một con rái cá. Bốn con vật khôn ngoan này sống với nhau, mỗi con săn tìm thức ăn của mình trong một khu riêng biệt và đến chiều tối, chúng đến họp lại với nhau. Thỏ rất thông tuệ, có tài khuyến dụ, thường thuyết chân lý cho ba bạn kia, dạy các bạn ấy nên bố thí, nên tuân hành luật đạo đức và giữ gìn ngày trai giới. Chúng đều tiếp thu lời khuyến dụ ấy và mỗi con đến trú ở chỗ riêng của mình trong khu rừng ấy.

Thời gian trôi qua, một hôm Bồ-tát quan sát bầu trời, nhìn mt trăng và biết rng hôm sau là ngày trai giới liền dn ba bạn kia:

– Ngày mai là trai nhật. Cả ba bạn hãy thực hành giới luật và giữ gìn ngày trai giới. Ai tỏ ra kiên định trong việc thực hiện đạo đức thì việc bố thí sẽ mang lại cho vị ấy kết quả xứng đáng. Thế thì hễ có kẻ nào đến xin bạn, bạn hãy cho họ ăn bng chính thức ăn của bạn.

Tất cả đều đồng ý, rồi ai nấy về chỗ của mình. Tờ mờ sáng hôm sau, rái cá ra đi tìm mồi, xuống tới bờ sông Hng. Bấy giờ, có một người đánh cá bắt được bảy con cá hồng, xâu cá vào một sợi mây rồi đem chôn chúng dưới cát trên bờ sông. Sau đó, ông ta lại xuống sông để bắt thêm cá. Rái cá đánh hơi được mấy con cá đang được chôn vùi kia, liền bới cát lên, trông thấy cá liền lôi ra và kêu lớn lên ba lần:

– Cá của ai đây?

Không thấy chủ nhân đâu, nó liền lấy răng cắn xâu cá ấy mang vào rừng đem về để vào nơi nó ở, định sẽ ăn vào lúc thích hợp. Thế rồi nó nm xuống suy nghĩ: “Mình thật đạo hạnh quá!”

Con chó rừng cũng ra đi kiếm thức ăn và tìm thấy trong túp lều của một người trông coi đồng ruộng hai xiên thịt nướng, một con rắn mối và một lọ sữa đông. Nó kêu lớn lên ba lần:

– Các thứ này của ai đây?

Sau đó không thấy ai là chủ nhân, nó tròng dây vào cổ mang cái lọ, dùng răng cắn con rắn mối và hai xiên thịt mang về cất vào hang của nó. Nó tự nghĩ: “Vào lúc thích hợp, ta sẽ ăn các thứ này.” Rồi nó nm xuống, suy nghĩ vừa rồi nó giữ đạo hạnh thật tốt.

Con khỉ cũng vào trong lùm cây, lượm một cành xoài rồi mang lên cất vào khu của nó trong rừng, định sẽ ăn các trái xoài ấy vào lúc thích hợp. Rồi nó nằm xuống, suy nghĩ nó đã giữ đạo hạnh thật đúng.

Còn Bồ-tát vào lúc cần, ra ngoài định ăn đọt non trên bãi cỏ kusa và trong lúc nm trong rừng, ngài chợt nghĩ: “Ta chng có dầu, chng có cơm, chng có các thứ như thế. Nếu có ai đến đây xin ta, ta đâu có thể lấy cỏ mà cho họ được. Nếu có người hành khất nào đến với ta, ta sẽ cho người ấy thịt của chính ta vậy.” Sự biểu lộ đức hạnh sáng ngời ấy làm cho chiếc ngai bng cẩm thạch trắng của Thiên chủ Đế-thích nóng lên. Đế-thích quán tưởng và khám phá ra duyên cớ, rồi quyết định thử lòng con thỏ chúa này. Trước hết, Thiên chủ giả làm một Bà-la-môn đến đứng gần nơi ở của con rái cá. Rái cá hi tại sao ông đứng đó, ông đáp:

– Này hiền giả, tôi vừa nhịn đói giữ trai giới, nếu có được thứ gì để ăn, tôi sẽ hoàn tất mọi bổn phận của một đạo sĩ.

Rái cá nói:

– Tốt lắm, tôi sẽ cho ngài thức ăn.

Rồi nó đọc bài kệ đầu để nói với Đế-thích:

Bảy cá hồng tôi đã gọn mang,
Từ dòng nước cả của sông Hằng,
Bà-la-môn hỡi, ăn cho thỏa,
Và ở lại đây chốn núi ngàn.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Hãy để đến ngày mai rồi tôi sẽ tính.

Rồi ông đến với con chó rừng. Khi được hi vì sao ông đứng đó, ông cũng trả lời như trước kia. Chó rừng cũng sẵn sàng hứa tng ông đồ ăn và nói với ông bng bài kệ thứ hai:

Người coi đồng dành thức ăn tối,
Bình sữa kia, rắn mối nữa đây,
Và hai xiên thịt nướng này,
Tôi đây trót dại lấy ngay ấy mà.
Có bao nhiêu tôi đà tặng đấy,
Bà-la-môn, xin hãy ăn thôi!
Nếu ngài hạ cố đến nơi,
Rừng này ở lại cùng tôi một hồi.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Hãy để đến mai rồi tôi sẽ tính.

Rồi ông đến với con khỉ. Khi được hi vì sao ông đứng đó, ông cũng trả lời như trước. Khỉ sẵn sàng cho ông đồ ăn và nói với ông bài kệ thứ ba:

Dòng nước lạnh với cành xoài mọng,
Chốn rừng xanh rợp bóng yên lành,
Ðể ngài vui hưởng, sẵn dành,
Nếu ngài th
a ý, rừng xanh nương mình.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Hãy để đến mai rồi tôi sẽ tính.

Rồi ông đến con thỏ rừng tinh khôn. Khi được hi vì sao ông đứng đó, ông cũng trả lời như trên. Khi nghe ông ta muốn gì, Bồ-tát rất tha ý, liền nói:

– Này Bà-la-môn, ngài đến với tôi để kiếm đồ ăn thì thật là đúng lắm. Hôm nay, tôi muốn trao tng một thứ mà trước đây tôi chưa bao giờ trao tng và ngài sẽ không phải phạm giới sát sinh. Này bng hữu, khi ngài chất củi và nhóm lên một ngọn lửa xong, hãy đến báo cho tôi biết, tôi sẽ nhảy vào trong lửa để hiến mạng sống của tôi. Khi thân tôi đã được nướng chín, ngài hãy ăn thịt tôi rồi hoàn thành các bổn phận đạo sĩ của ngài.

Rồi thỏ nói với ông bài kệ thứ tư:

Tôi chẳng có thức ăn mè, đậu,
Cùng gạo cơm để hậu đãi ngài,
Thịt tôi hãy nướng lửa thôi,
Nếu ngài sống với chúng tôi chốn này.

Thiên chủ Đế-thích nghe bảo thế, liền dùng thần lực tạo nên một đống than cháy đỏ rồi đến báo cho Bồ-tát hay, Bồ-tát từ chỗ nm bng cỏ kusa đứng lên và đến nơi ấy, ngài lắc mình ba lần để nếu có côn trùng vào nm trong bộ lông của ngài rơi ra mà thoát chết.

Rồi để hiến dâng toàn cả thân mình, Bồ-tát nhảy vọt lên trong một niềm hoan lạc tràn trề. Ngài rơi xuống đống than cháy rực giống như một con thiên nga vương giả đáp xuống cụm hoa sen. Nhưng ngọn lửa tắt ngay khi chạm đến những lỗ chân lông trên toàn thân ngài giống như ngài rơi vào vùng sương giá. Ngài liền hi Đế-thích:

– Này Bà-la-môn, ngọn lửa ngài vừa nhóm lên giá lạnh quá, nó chng làm nóng được các lỗ chân lông trên thân thể tôi. Tại sao thế?

Đế-thích đáp:

– Thưa Hiền giả, ta chng phải là một Bà-la-môn, ta là Đế-thích, ta đến đây để thử đức hạnh của ngài.

Bồ-tát nói:

– Thưa Đế-thích, không những chỉ riêng ngài mà nếu tất cả mọi người trên thế gian này đến đây để thử tôi về cung cách bố thí như thế kia thì họ cũng sẽ không bao giờ thấy rng tôi từ bmột ý định bố thí nào.

Nói xong, Bồ-tát thốt lên tiếng reo sảng khoái như tiếng rống của sư tử.

Bấy giờ, Đế-thích nói với Bồ-tát:

– Này thỏ hiền trí, mong cho đức hạnh của ngài được tỏa sáng muôn đời.

Rồi Thiên chủ ép một trái núi, lấy nước tinh từ đó ra mà vẽ hình một con thỏ trên mt trăng. Sau khi đt thỏ vào chỗ nm bng cỏ non kusa, Thiên chủ quay về cung điện của mình ở trên trời.

Bốn con vật khôn ngoan kia sống hạnh phúc hài hòa bên nhau, giữ tròn giới luật, tuân hành các ngày trai giới, rồi khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.

Sau khi kể xong pháp thoại này, bậc Ðạo sư tuyên thuyết bốn chân lý. Ở phần kết thúc bốn chân lý, người gia trưởng đã cúng dường các vật dụng cần thiết cho các Tỷ-kheo kia đắc quả Dự lưu, và bậc Ðạo sư nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ Ānanda là con rái cá, Mục-kiền-liên là con chó rừng, Xá-lợi-phất là con khỉ, còn Ta là con thỏ hiền trí ấy.”

Câu chuyện hào sảng này chứa đựng những chi tiết gây phấn chấn tâm hồn, vừa hoành tráng vừa thi vị. Để kỷ niệm hành động hy hiến bản thân của chú thỏ, Vua trời Đế-thích đã nhấc một hòn núi lên làm bút và vẽ hình ảnh của chú thỏ lên vầng trăng. Những người Phật tử Kalmuks, một trong hai sắc dân lớn nhất của người Mông Cổ, đã gìn giữ thần tích này với tên gọi: “Thỏ ngọc vầng trăng.”96 Câu chuyện “Thỏ ngọc” này không chỉ phổ biến rộng khắp một vùng địa lý bao la bao gồm những đất nước và khu vực lớn nhỏ như Ấn Độ,97 Tây Tạng, Miến Điện và Nhật Bản mà còn lan tỏa sang Trung Hoa và trở thành một nét văn hóa cơ hữu, đặc sắc của đất nước tỷ dân ấy. Không dừng ở đó, chú thỏ trên vầng trăng còn lan xa đến Âu Mỹ. Chắc chắn, Phật giáo Đại thừa dưới dạng những câu chuyện sẽ tiếp tục là nguồn dưỡng chất thánh thiện, cao siêu và trác tuyệt, tạo nền tảng cho mặt bằng đạo đức và lòng hy hiến nơi những tâm hồn hiền thiện vàthanh lương.

VI. PHIÊN BẢN JĀTAKA TIẾNG VIỆT

1. Để bản của Jātaka tiếng Việt
Tập Chuyện Tiền thân (2 quyển) trong bộ Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam này, mang số hiệu 06-07, được HT. Thích Minh Châu và cư sĩ Nguyên Tâm – Trần Phương Lan dịch từ tiếng Pāli và tiếng Anh sang Việt ngữ. Các ấn bản tiếng Pāli này đều được PTS ấn hành.98 Hòa thượng chỉ dịch 120 câu chuyện đầu từ tiếng Pāli và cư sĩ Nguyên Tâm – Trần Phương Lan dịch các câu chuyện còn lại từ bản tiếng Anh. Phần dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, như Lời giới thiệu của Hòa thượng đã nói, là không dịch phần Veyyākaraṇā, tức phần giải thích bài kệ hoặc các danh từ trong câu chuyện quá khứ.

Cũng cần đề cập ở đây, bản Jātaka bằng tiếng Pāli của PTS do V. Fausböll biên tập đầu tiên với tựa đề: The Jātaka Together with Its Commentary Bring Tales of the Anterior Births of Gotama Buddha (Jātaka kết hợp với Chú giải mang lại những câu chuyện về tiền thân của đức Phật Gotama) gồm 6 tập, được PTS xuất bản tại London từ năm 1877-96. Ấn bản này có sự khác biệt rất lớn với ấn bản Tích Lan và CST, vì gom chung Chánh tạng (Mūla) và Chú giải (Aṭṭhakathā) thành một bản như chúng ta đang thấy trong TTTĐPGVN, trong khi đó, bản Jātaka thuộc Chánh tạng của Tích Lan và CST chỉ có các câu kệ và các phần còn lại như câu chuyện hiện tại, câu chuyện quá khứ, giảng giải các danh từ, giảng rộng nội dung bài kệ, v.v… được trình bày trong Chú giải.99

T. W. Rhys Davids đã dịch hai tập đầu sang tiếng Anh với tựa đề: Buddhist Birth Stories (Những chuyện tiền thân Phật giáo), được PTS xuất bản năm 1880. Sau đó các học giả R. Chalmers, W. H. D. Rouse, H. T. Francis, R. A. Neil, E. B. Cowell lần lượt dịch sang tiếng Anh, và E. B. Cowell biên tập thành 6 tập với tựa đề: The Jātaka or Stories of the Buddha’s Former Births, được PTS xuất bản tại London từ năm 1895-1913. Trong bản tiếng Anh này, các dịch giả chuyển dịch từ Pāli sang Anh ngữ cũng lược bỏ bớt phần giải thích các danh từ và nội dung của bài thi kệ, tức là bỏ phần Veyyākaraṇā.

2. Ấn bản Jātaka tiếng Việt hiện nay
Trong quá trình nhuận sắc lại bản dịch tiếng Việt, Ban Biên tập có tham khảo bản Jātaka trong Chánh tạng Chú giải của ấn bản Tam tạng do Tăng-già Phật giáo Theravāda kết tập lần thứ 6 (Chaṭṭha Saṅgāyana Tipiṭaka) tại Miến Điện. Ấn bản này được Vipassana Research Institute (Viện Nghiên cứu Thiền quán) tại Ấn Độ biên tập và đăng tải tại tipitaka.org rất phổ biến trong giới học giả ngày nay.

Về bản dịch Chuyện Tiền thân trong ấn bản TTTĐPGVN, Ban Biên tập thống nhất giữ nguyên bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu và cư sĩ Nguyên Tâm – Trần Phương Lan, đánh số kệ theo thứ tự mặc ước trong Chánh tạng CST, đồng thời bổ sung trên 600 bài thi kệ (dịch trên 100 bài kệ, tách kệ đã dịch theo bản CST trên 100, và chuyển thi kệ từ văn xuôi đã dịch trên 400 bài).

Một số dữ liệu khác trong bản dịch Việt cũng được điều chỉnh đúng theo Chánh tạng Chú giải Jātaka của CST. Tuy nhiên, tiêu đề và các chữ dùng trong bản này cũng viết theo PTS và ghi chú sự khác biệt giữa chúng với bản CST và ấn bản Tích Lan trong Phụ lục 4.

Tất cả sự nỗ lực của chư vị Trưởng lão, dịch giả tiền bối và Ban Biên tập ngày nay đều hướng đến sự hoàn thiện bộ Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam như hàng triệu trái tim người con Phật Việt Nam trong nước và nước ngoài hằng mong đợi.

Cẩn bút,
Mùa An cư kiết hạ PL. 2565 – DL. 2021
TT.TS. Thích Minh Thành
(Đồng Tổng Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam)

 

Chú thích

1 Kanai Lal Hazra, Pali Language and Literature, vol. I (New Delhi: D. K. Printworld (P) Ltd., 1994), p. 311.
2 T. W. Rhys Davids & William Stede, Pāli-English Dictionary (New Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1921), p. 281.
3 Tham chiếu: HT. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trung bộ trong TTTĐPGVN (tập 2), (Hà Nội: NXB. Hồng Đức, 2020), tr. 161: “... một số thiện nam tử học pháp như Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng.”
G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 3-7.
5 “Mỗi một hạng mục như vậy có một lịch sử riêng biệt” là điều được nhấn mạnh. Xem T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 194.
6 Cũng có trường hợp ngoại lệ, như Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta, số §514, không có phần nhận diện tiền thân này.
7 Kanai Lal Hazra, Pali Language and Literature, vol. I (New Delhi: D. K. Printworld (P) Ltd., 1994), p. 311; Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 111; G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 13.
8 Oskar von Hinüber, A Handbook of Pali Literature (New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd, 1996), p. 56.
9 Xem Phụ lục 3: Thống kê và đối chiếu số kệ Chuyện Tiền thân giữa 3 bản (CST, PTS và Tích Lan).
10 E. B. Cowell (ed.), The Jātaka or Stories of the Buddha’s Former Births (New Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1895), p. xxiii; Bimala Churn Law, A History of Pali Literature (Varanasi: Indica Books, 1933), p. 274; Kanai Lal Hazra, Pali Language and Literature, vol. I (New Delhi: D. K. Printworld (P) Ltd., 1994), p. 311-12; Oskar von Hinüber, A Handbook of Pali Literature (New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd, 1996), p. 54.
11 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 24.
12 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 119.
13 E. B. Cowell (ed.), The Jātaka or Stories of the Buddha’s Former Births (New Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1895), p. xxii; G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 20.
14 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 20 và p. 24.
15 Ngày nay là một khu vực lớn thuộc địa phận Thành phố Hồ Chí Minh.
16 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 20.
17 Pierre Dupont, La Version Mône du Narada-Jataka (Saigon: École Française d'Extrême Orient, 1954); G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 24.
18 Tāranātha, History of Buddhism in India, tr. by Lama Chimpa, Alaka Chattopadhyaya (from Tibetan), ed. by Debiprasad Chattopadhyaya (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers PVT. LTD., 1990 reprinted). Tác phẩm này cũng được V. Vasil’ev dịch sang tiếng Nga và Schiefner dịch sang tiếng Đức xuất bản năm 1869.
19 Các học giả không dễ dàng đồng thuận với con số 34 Jātaka theo cách như vậy.
20 Bimala Churn Law, A History of Pali Literature (Varanasi: Indica Books, 1933), p. 237; Kanai Lal Hazra, Pali Language and Literature, vol. I (New Delhi: D. K. Printworld (P) Ltd., 1994), p. 311.
21 Bimala Churn Law, A History of Pali Literature (Varanasi: Indica Books, 1933), p. 274.
22 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 8.
23 Sđd. tr. 7.
24 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 119.
25 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 119-20; G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 15.
26 M. L. Feer năm 1895 đã nghiên cứu cặn kẽ Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta dựa trên việc so sánh 5 phiên bản khác nhau: 2 phiên bản Pāli, 1 phiên bản Sanskrit và 2 phiên bản chữ Hán.
27 Tên gốc trong tạng Pāli làJātakatthavaṇṇana (Chú giải Chuyện Tiền thân).
28 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 120.
29 Sđd, tr. 120-21.
30 Một bức phù điêu ở tháp Bharhut phác họa nhiều phân cảnh từ câu chuyện tiền thân này.
31 Phiên bản trong J. II. 58, Chuyện chim diều hâu (Sakuṇagghijātaka), số§168.
32 HT. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương ưng bộ, Kinh Con chim ưng ( Sakuṇagghisutta), TTTĐPGVN, tập 3 (Hà Nội: NXB. Hồng Đức, 2020), tr. 1106-7.
33 D. 17, Kinh Đại Thiện Kiến vương (Mahāsudassanasutta); M. 83, Kinh Makhādeva (Makhādevasutta).
34 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 196ff.
35 Câu chuyện đạo lý cổ xưa với đặc điểm là những con vật có những phẩm chất như con người.
36 Câu chuyện đạo lý cổ xưa với đặc điểm là những con người có những phẩm chất siêu phàm.
37 Câu chuyện đạo lý cổ xưa với đặc điểm là những con người có thật trong lịch sử được thần thánh hóa.
38 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 115.
39 Sđd. tr. 116.
40 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 10.
41 Campu là tiếng Sanskrit dùng để chỉ cho một thể loại thơ ca. Xem G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 19.
42 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 197.
43 Pāli của ấn bản CST: “Yaṃ brāmaṇo avādesi Jātaka.”
44 Theo ấn bản Tam tạng của chúng ta đang thực hiện, chỉ có Chuyện con mèo (Biḷārajātaka), số §128. Xem J. I. 460. Rất có thể “Chuyện Tiền thân con gà trống” xuất hiện trên các bản điêu khắc.
45 J. II. 23, Chuyện công đức (Guṇajātaka), số §157; T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 199.
46 J. II. 175, Chuyện con rùa (Kacchapajātaka), số §215.
47 Tập Jātaka thuộc Thánh điển ấy trong phiên bản tinh tuyền đến độ chỉ chứa kệ tụng, vì vậy mà người đọc hay người nghe không thể hiểu được khi thiếu phần chú giải hay diễn giải.
48 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 200-01.
49 T. W. Rhys Davids đã bàn thảo về chi tiết thú vị này năm 1902 trong một bài viết nhan đề: “Người cuối cùng xuất gia” (The Last to Go Forth) đăng trong JRAS, vol. 33, kỳ 4/10 năm 1901.
50 T. W. Rhys Davids không nghĩ như Giáo sư Childers. Xem T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 201.
51 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 202.
52 Một dạng thiên văn học của Ấn Độ cổ đại. Xem T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 203.
53 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 204.
54 Dĩ nhiên là không thể nào trễ hơn thế kỷ III TTL.
55 Cần ghi nhận rằng khung ngoại vi như đã nói chỉ là công cụ thiết yếu trong tay của những nhà phát triển truyền thống Jātaka dùng để trang hoàng cho một câu chuyện xưa rồi dựa theo đó mà đưa câu chuyện vào truyền thống Phật giáo.
56 M. Senart đã đề cập điều này trong bài viết của ông đăng trên Journal Asiatique (France: Paris Publisher, 1902).
57 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 205.
58 Sđd, tr. 206.
59 Sđd, tr. 206-08.
60 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 122.
61 Sđd.
62 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 131.
63 Jātaka còn cómặt trong nền văn chương Ả-rập. Xem G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 10.
64 Phần dẫn khởi câu chuyện cho chúng ta thấy mẹ của cậu làmột con nai. Câu chuyện này có niên đại rất xa xưa, nó đã xuất hiện trên bức phù điêu ở di tích Bharhut. Một con nai cái sanh em bé và vị ẩn sĩ nhặt về nuôi. Niên đại của bức phù điêu này vào khoảng thế kỷ III TTL.
65 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 142.
66 Uy lực của người thật tu được Đế-thích tiết lộ để Vua Brahmadatta biết qua câu thoại trong Chuyện Công chúa Niḷinikā (số §526): “Trên vùng Tuyết sơn, này Đại vương, có một ẩn sĩ tên là Isisiṅga. Vị này hành trì khổ hạnh hết sức khắc nghiệt, khi trời sắp mưa, ông giận dữ nhìn lên trời khiến mưa ngưng lại…”
67 Những câu kệ kế tiếp vì sắc thái phồn thực cổ đại quá phô bày nên không trích dẫn ở đây.
68 Jan Knappert, Indian Mythology (London: Diamond Books, 1995), p. 209-10. Trong tác phẩm này, Jan Knappert đãtrình bày một phiên bản thú vị khác của câu chuyện về Isisiṅga. Đây là một phiên bản mang phong vị thuần túy Ấn Độ cổ đại, không mang sắc thái Phật giáo.
69 Bản CST số 545. Bản Tích Lan và PTS số 544.
70 E. B. Cowell (ed.), The Jātaka or Stories of the Buddha’s Former Births (New Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1895), p. xxv.
71 Như vậy số kệ của câu chuyện khoảng 96,6% so với Truyện Kiều (3.254 câu). Chúng tôi đếm được tổng số kệ của bản PTS là 6.514 khổ kệ. Bản Tích Lan do TT. Indacanda dịch sang Việt ngữ có 6.796 khổ kệ. Ấn bản Buddha Jayanti Tripiṭaka cũng tại Tích Lan có tới 6.905 khổ kệ. Bản CST có 6.644 khổ kệ. Tính trung bình mỗi bài kệ chỉ 4 câu thì theo bản nào cũng đều dài hơn gấp 8 lần Truyện Kiều. Nếu tính chi tiết hết các bài kệ có 6 câu, 8 câu hoặc 12 câu và các bài kệ đan xen của các tuyến nhân vật trong khi đối đáp mà không được đánh số, có lẽ độ dài của nó có thể phải hơn gấp 9 lần Truyện Kiều.
72 Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 109.
73 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 19.
74 In lại tại Ấn Độ năm 1997
.75 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 189.
76 Sđd. tr. 196-97.
77 Bimala Churn Law, A History of Pali Literature (Varanasi: Indica Books, 1933), p. 279.
78 T. W. Rhys Davids, Buddhist India (Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1903), p. 209.
79 James Hastings (ed.), Encyclopedia of Religion and Ethics, vol. VII (New York: Charles Scribner’s Sons, 1915).
80 Một tác phẩm kinh điển bằng tiếng Sanskrit được cho là thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (Sarvāstivāda).
81 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 22.
82 Sđd. tr. 20.
83 Sđd. tr. 12.
84 Sđd. tr. 20.85 Sđd. tr. 20.
86 Ngài Devaragampola Silvatanna nổi tiếng với những bức tranh vẽ tại tinh xá Malvatu vàt inh xá Degaldoruwa ở Kandy (Tích Lan).

87 500 thân tướng của vị Bồ-tát có mặt trong đám rước Xá-lợi răng Phật đến tinh xá Abhayagiri vào thế kỷ V. Xem Oskar von Hinüber, A Handbook of Pali Literature (New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd, 1996), p. 57.
88 E. B. Cowell (ed.) The Jātaka or Stories of the Buddha’s Former Births (New Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd. 1895), tr. xxii.
89 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 21.
90 XứJava (Indonesia) vào thế kỷ IX, xứ Pagan (Miến Điện) vào thế kỷ XIII.
91 Bimala Churn Law, A History of Pali Literature (Varanasi: Indica Books, 1933), p. 279.
92 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 278.
93 Đó là dị bản của “Chuyện đôi ca thần Canda” (Candakinnarījātaka, số §485).
94 H. Saddhatissa đã trình bày trong bài viết: Pali Literature from Laos (Nền văn hc Pali từ đất nước Lào)” đăng trong tuyển tập Studies in Pali and Buddhism (Nghiên cứu Pāli và Phật gio), A Memorial Volumn in Honor of Bhikkhu Jagdish Kashyap, ed. by A. X. Narain (New Delhi: B. R. Pub. Corp., 1979).
95 G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. VI (Government of Sri Lanka, 1996), p. 21.
96 T. W. Rhys Davids đề cập chuyện này trong tác phẩm Buddhism (London: Society for Promoting Christian Knowledge, 1890).
97 Đây là câu chuyện có niên đại tiền Phật giáo. Xem Maurice Winternitz, History of Indian Literature, vol. II (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), p. 145.
98 Jātaka, 6 vols., ed. by V. Fausböll (London: PTS, 1877-96); The Jātaka or Stories of the Buddha’s Former Births (A Translation of the Jātaka), 6 vols., tr. by R. Chalmers, W. H. D. Rouse, H. T. Francis, R. A. Neil, E. B. Cowell, and ed. by E. B. Cowell (London: PTS, 1895-1913).
99 Ngoại trừ câu chuyện 536, Chuyện chim chúa Kuṇāla, trong bản Tích Lan và CST vừa có văn xuôi vừa có bài kệ.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.