Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 06  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 06»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 2
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU Dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN Dịch

Mục Lục

§429. CHUYỆN ÐẠI ANH VŨ (Mahāsukajātaka) (J. III. 490)

Bất cứ khi nào cây trái sinh...

Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng, vị ấy sống trong rừng gần một làng biên địa ở Kosala và nhận được lời giáo huấn từ bậc Ðạo sư theo các đề tài thiền quán. Dân chúng làm cho ông một am thất trong một nơi họ thường lui tới, cung cấp nơi cư trú cả ngày lẫn đêm, phụng sự ông rất tận tâm và chu đáo. Ngay tháng đầu tiên ông an cư mùa mưa, làng ấy bị đốt sạch và dân chúng không còn một hạt thóc nên không thể cúng dường thực phẩm thơm ngon vào bình bát của ông. Cho nên, mặc dù ông ở trong một nơi thoải mái, ông lại buồn khổ vì thiếu thực phẩm đến độ không thể nhập vào Thánh đạo hay Thánh quả được.

Vì vậy, khi hết ba tháng mưa, ông đến yết kiến bậc Ðạo sư. Sau những lời ân cần chào hỏi, bậc Ðạo sư bày tỏ hy vọng là mặc dù khó khăn về thực phẩm cúng dường, ông cũng có được một nơi an trú dễ chịu. Vị Tỷ-kheo trình Ngài về tình hình đã diễn tiến ra sao, khi nghe ông có được một trú xứ an lạc, bậc Ðạo sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, nếu sự tình là như vậy, một vị tu khổ hạnh nên dẹp bỏ các thói tham đắm và nên tri túc với những thức ăn gì mình nhận được để hoàn thành phận sự của người xuất gia. Các bậc trí ngày xưa khi được sinh vào loài súc vật, dù chỉ sống bằng bụi bặm trong cây hư mục mà mình cư trú cũng đã bỏ mọi tham dục, tự biết sống đủ để ở lại nơi kia và hoàn thành đạo lý về ân tình. Thế thì tại sao ông lại bỏ một nơi cư trú đầy an lạc chỉ vì thức ăn nhận được quá ít ỏi thô sơ?

Và theo lời thỉnh cầu của vị này, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, có vô số chim anh vũ (két) sống ở vùng Tuyết Sơn trên bờ sông Hằng trong một rừng sung. Vua anh vũ ấy gặp lúc trái cây nơi mình cư trú đã hết mùa, phải ăn bất cứ cái gì còn sót lại, dù là mầm, lá, vỏ cây hoặc giác cây và uống nước sông Hằng, vẫn thấy an lạc và tri túc nơi mình sống.

Do tâm trạng an lạc và tri túc này, chiếc ngai của Thiên chủ Sakka rung động. Sakka tìm hiểu nguyên nhân và thấy anh vũ này. Rồi muốn thử thách công hạnh của chim, ngài dùng thần lực làm cho cây héo tàn, trở thành khúc thân cây mục đầy lỗ hổng đứng chơ vơ bị mưa gió vùi dập và bụi bặm bay ra từ các lỗ ấy. Anh vũ vương vẫn ăn bụi cây và uống nước sông Hằng, không đi đâu khác và vẫn đậu trên ngọn cây, chẳng quan tâm gì đến nắng gió.

Thiên chủ Sakka nhận thấy anh vũ sống rất tri túc, liền tự bảo: “Sau khi nghe chim nói về đức tính của tình bằng hữu, ta sẽ đến ban cho chim một đặc ân và làm phép cho cây sung sinh trái bất tử.” Vì thế, ngài giả dạng một thiên nga cùng với hoàng hậu của ngài là Sujā đi trước, biến hình thành một nữ thần a-tu-la, ngài đến rừng sung kia, đậu trên một khóm cây gần đó và ngâm kệ bắt đầu đàm thoại với anh vũ:

20. Bất cứ khi nào cây trái sinh,

Bầy chim đói lại đến đầy cành,

Song khi cây đã thành khô héo,

Lập tức bầy chim bỏ chạy nhanh.

Sau lời này, ngài lại ngâm vần kệ thúc giục chim đi chỗ khác:

21. Này ông mỏ đỏ, hãy đi mau,

Ông vẫn ngồi mơ mộng, cớ sao?

Hãy nói ta nghe, xuân điểu hỡi,

Sao ông bám khúc gỗ khô này?

Chim anh vũ đáp:

– Này thiên nga, do ân nghĩa, ta không rời bỏ cây này.

Rồi chim ngâm hai vần kệ:

22-24. Những ai thân thiết tự ngày xuân,

Biết rõ mọi điều thiện, chánh chân,

Dầu sống, chết hay khi khổ lạc,

Ðều không hề bỏ mặc thân bằng.

Ta muốn ân cần giữ thiện tâm,

Với cây kết bạn đã lâu năm,

Ta mong sống, dẫu lòng không nỡ,

Rời bỏ cây khô đã chết dần.

Sakka nghe chim nói, rất hoan hỷ, vừa ca ngợi chim vừa muốn ban cho chim một điều ước, liền ngâm hai vần kệ:

25. Ta biết chim giao hữu thật tình,

Trí nhân chắc chắn phải hoan nghênh,

Ta ban chim thứ gì mong muốn,

Anh vũ ước cho thỏa ý mình.

Nghe vầy, anh vũ vương ngâm vần kệ thứ bảy nói lên điều mình ước:

26. Thiên nga, nếu bạn muốn ban ân,

Mong ước cho cây sống lại dần,

Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,

Quả ngon tươi mát mọc đầy thân.

Rồi Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ thứ tám ban đặc ân này:

27. Bạn nhìn cây quý quả sai đầy,

Thích hợp cho chim ở chốn này,

Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,

Quả ngon ngọt mát lại tươi thay!

Cùng với các lời này, Sakka bỏ lốt thiên nga, thị hiện phép thần thông cùng Hoàng hậu Sujā lấy tay múc nước sông Hằng rảy vào thân cây sung. Lập tức, cây mọc lên cành lá sum suê đầy trái ngọt như mật, tạo thành một cảnh tượng kỳ diệu như đỉnh núi Ngọc Bích lồ lộ. Anh vũ thấy vậy, vô cùng hoan hỷ ngâm vần kệ thứ chín tán thán Thiên chủ Sakka:

28. Ước mong Thiên chủ, mọi thiên thần,

Ðều hưởng thọ tràn ngập phước ân,

Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng,

Khi nhìn cảnh tượng đẹp huy hoàng.

Sau khi ban điều ước cho anh vũ và làm phép để cây sung mọc trái bất tử, ngài cùng Hoàng hậu Sujā trở về cõi của ngài.

Ðể minh họa chuyện này, các vần kệ xuất phát từ trí tuệ tối thắng của bậc Giác ngộ được thêm vào đoạn cuối:

29. Ngay khi anh vũ chúa cầu mong,

Lần nữa cây kia trổ trái dần,

Đế-thích cùng bà hoàng biến mất,

Về vườn Thiên Lạc cõi thiên thần.

***

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này Tỷ-kheo, các bậc trí này xưa dù sinh làm súc vật cũng dứt bỏ tham ái. Thế tại sao nay ông đã được thọ giới trong giáo pháp tối thượng này, lại còn theo các thói xan tham? Hãy về ở lại chỗ ấy!

Rồi Ngài trao cho vị này một đề tài thiền quán và nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà) và anh vũ vương chính là Ta.

Vị Tỷ-kheo trở về và nhờ thiền quán đã đắc Thánh quả A-la-hán.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.