Tam tạng Thánh điển PGVN 06 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 06»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 2
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU Dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN Dịch
§418. CHUYỆN TÁM TIẾNG KÊU (Aṭṭhasaddajātaka) (J. III. 428)
Ngày xưa thường gọi chốn này...
Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một tiếng động kinh hoàng không phân biệt được mà vua xứ Kosala đã nghe lúc nửa đêm. Hoàn cảnh câu chuyện này đã được tả trong Chuyện địa ngục Nồi Sắt.[1]
Tuy nhiên lần này, khi vua hỏi:
– Bạch Thế Tôn, việc trẫm nghe tám tiếng kêu ấy có mang lại điều gì chăng?
Bậc Ðạo sư đáp:
– Thưa Ðại vương, đừng sợ hãi! Không có mối nguy gì xảy ra cho Ðại vương do các tiếng kêu ấy. Những âm thanh kinh hoàng khó phân biệt như thế không chỉ một mình Ðại vương nghe được mà các đế vương ngày xưa cũng đã từng nghe những âm thanh tương tự. Và dự định theo lời khuyên của các Bà-la-môn dâng tế lễ bốn loại sinh vật nhưng sau khi nghe các bậc Hiền trí khuyên nhủ, các vua ấy đã thả tự do cho bầy gia súc được thâu góp để tế đàn và truyền đánh trống ra lệnh cấm mọi việc sát sanh.
Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể câu chuyện đời xưa.
***
Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn có gia sản đến tám trăm triệu đồng tiền. Khi lớn lên, ngài học mọi ngành nghệ thuật tại Takkasilā. Sau khi cha mẹ qua đời, ngài xem xét tất cả các kho tàng, rồi từ bỏ mọi của cải bằng cách bố thí, đoạn trừ tham dục và đến vùng Tuyết Sơn trở thành một vị khổ hạnh chuyên tâm nhập định.
Sau một thời gian, ngài trở về chốn cư trú của quần chúng để tìm muối và giấm, đến tận Ba-la-nại, nghỉ ngơi trong ngự viên. Thời ấy, vua xứ Ba-la-nại nghe tám tiếng kêu lớn trong lúc đang ngủ trên vương sàng khoảng nửa đêm. Đầu tiên, một con hạc kêu trong vườn gần hoàng cung; thứ hai, ngay sau khi hạc kêu, một con quạ cái kêu từ cổng chuồng voi; thứ ba, một con mọt kêu ở nóc hoàng cung; thứ tư, một con chim sơn ca thuần dưỡng kêu trong hoàng cung; thứ năm, một con nai thuần dưỡng cũng kêu tại chỗ ấy; thứ sáu, một con khỉ thuần dưỡng cũng kêu tại đó; thứ bảy, một vị tiểu thần sống trong hoàng cung cất tiếng kêu than và thứ tám, ngay sau khi tiếng kêu cuối cùng ấy, một vị Ðộc Giác Phật thốt ra một âm thanh đầy hoan lạc khi bay qua mái hoàng cung tiến về phía ngự viên.
Vua rất kinh hãi khi nghe tám tiếng kêu trên. Hôm sau, vua liền tham vấn các Bà-la-môn. Họ đồng đáp:
– Tâu Ðại vương, tai họa sắp xảy ra với Ðại vương, hãy cho phép chúng thần dâng lễ tế đàn ngoài hoàng cung!
Rồi khi được vua cho phép họ làm điều họ muốn, họ hoan hỷ đến và bắt đầu chuẩn bị tế đàn. Bấy giờ, một đệ tử trẻ tuổi của vị tế sư Bà-la-môn trưởng thượng rất thông thái đa văn, chàng thưa với thầy:
– Bạch Tôn sư, không nên gây nhiều việc sát hại sinh vật độc ác và thô bạo như vậy!
– Này đệ tử, con biết gì về việc này chứ? Cho dẫu chẳng có gì khác xảy ra, chúng ta cũng được ăn một mẻ cá thịt no nê thỏa thích!
– Bạch Tôn sư, đừng vì cái bụng mà tạo ác nghiệp đưa đến tái sanh trong địa ngục!
Nghe vậy, các Bà-la-môn kia tức giận vị đệ tử muốn làm hỏng các mối lợi của họ. Vị đệ tử sợ hãi đáp:
– Thôi được, xin cứ tìm cách lấy thật nhiều cá thịt để ăn.
Rồi chàng rời kinh thành đi tìm một vị khổ hạnh thuần thành có khả năng ngăn cản vua việc tế đàn kia. Chàng vào ngự viên và thấy Bồ-tát, liền kính chào ngài và hỏi:
– Tôn giả không có lòng bi mẫn các sinh vật sao? Vua đã ra lệnh làm tế đàn gây chết chóc cho nhiều sinh vật, Tôn giả không muốn giải thoát cho những sinh linh ấy sao?
– Này thanh niên Bà-la-môn, ta không biết vua nước này, vua cũng không biết ta.
– Bạch Tôn giả, Tôn giả có biết hậu quả của các âm thanh mà nhà vua đã nghe sẽ ra sao chăng?
– Ta biết chứ.
– Nếu Tôn giả biết, tại sao Tôn giả không bảo cho vua?
– Này thanh niên Bà-la-môn, làm sao ta có thể kiêu hãnh đến bảo vua: “Ta biết!”, được chứ? Nếu vua đến hỏi ta, ta sẽ bảo cho ngài.
Vị Bà-la-môn trẻ tuổi vội vàng đến cung đình và khi được hỏi có việc gì, chàng bảo:
– Tâu Ðại vương, có một vị khổ hạnh biết nguyên nhân các âm thanh mà Ðại vương đã nghe. Vị ấy đang ngồi trên vương tòa trong ngự viên và bảo vị ấy sẽ trình bày với Ðại vương nếu Ðại vương hỏi. Xin Ðại vương hãy làm như vậy!
Vua vội vàng đến kính lễ vị khổ hạnh và sau khi ân cần chào nhau, vua ngồi xuống và hỏi:
– Có thật Tôn giả biết nguyên nhân tám tiếng kêu mà trẫm đã nghe chăng?
– Tâu Ðại vương, phải.
– Vậy xin Tôn giả nói cho trẫm nghe!
– Tâu Ðại vương, không có gì nguy hiểm liên hệ đến các âm thanh kia. Trước hết, có một con hạc trong ngự viên cũ của Ðại vương thiếu thức ăn nên đói lả gần chết và thốt tiếng kêu ấy.
Như thế, do tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng kêu của con hạc, vừa ngâm vần kệ đầu.
10. Ngày xưa thường gọi chốn này,
Ao sâu, tôm cá lội đầy tung tăng.
Là nơi cư trú hạc vương,
Tổ tiên ta cũng sống thường trước kia.
Dẫu ăn ếch nhái bây giờ,
Chúng ta không thể xa bờ ao xưa.
– Tâu Ðại vương, đó là tiếng kêu của con hạc trong cơn đói lả. Nếu Ðại vương muốn nó khỏi đói, xin hãy ra lệnh dọn vườn sạch sẽ và đổ nước đầy ao!
Vua liền bảo một vị triều thần sai người làm việc này.
– Tâu Đại vương, có con quạ cái ở trên cổng chuồng voi của hoàng gia. Nó thốt tiếng kêu thứ hai khóc thương con nó. Đại vương không nên sợ việc này.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ hai.
11. Anh chàng một mắt Bandhura,
Là ai mà cứ phá nhà của tôi?
Bầy chim mới nở, than ôi!
Ai người thân thiện cứu tôi khốn cùng?
Rồi ngài hỏi vua về tên của người trưởng nhóm quản tượng ở chuồng voi.
– Thưa Tôn giả, tên y là Bandhura.
– Tâu Ðại vương, y chỉ có một mắt ư?
– Thưa Tôn giả, phải.
– Tâu Ðại vương, có một con quạ làm tổ trên cổng chuồng voi, nó đẻ trứng tại đó và đúng kỳ hạn trứng đã nở thành chim non. Mỗi khi người quản tượng ra vào chuồng voi để chăm sóc voi, y hay lấy cái móc đập vào con quạ và tổ chim non để phá tổ. Con quạ trong lúc nguy khốn chỉ muốn mổ mắt y nên thốt ra tiếng kêu ấy. Nếu Ðại vương có thiện ý với nó, xin hãy truyền Bandhura vào chầu và cấm y phá tổ quạ.
Vua truyền gọi Bandhura vào, khiển trách y và giao chuồng voi cho kẻ khác.
– Tâu Ðại vương, trên nóc hoàng cung có một con mọt gỗ, nó đã ăn hết gỗ sung tại đó và không thể ăn thứ gỗ cứng hơn. Vì thiếu thức ăn và không thể bò ra ngoài nên nó thốt tiếng kêu thứ ba để than vãn. Ðại vương không cần sợ nó.
Rồi nhờ tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng mọt gỗ kêu vừa ngâm vần kệ thứ ba.
12. Ta vừa ăn hết gỗ sung,
Mọi nơi ta đã đi vòng quanh co.
Gỗ nào cứng, mọt khó ưa,
Còn thức ăn khác ở xa dưới mình!
Vua bảo một cung nhân tìm cách giải thoát con mọt.
– Tâu Ðại vương, trong cung thất có con chim sơn ca thuần dưỡng nào chăng?
– Thưa Tôn giả, có chứ.
– Tâu Ðại vương, con sơn ca ấy héo mòn vì mong mỏi về rừng mỗi khi nó nhớ lại quãng đời cũ:
“Làm sao rời khỏi lồng này,
Làm sao trở lại rừng cây thân tình!”
Vì thế, nó thốt lên tiếng kêu thứ tư, xin Ðại vương chớ lo sợ việc ấy!
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tư.
13. Ước gì rời chốn cung đình,
Ước gì giải thoát thân mình tự do,
Hân hoan bay lượn rừng già,
Rồi ta xây tổ của ta trên cành!
Ngâm kệ xong, ngài thêm:
– Tâu Ðại vương, chim sơn ca ấy đang mòn mỏi đợi chờ, xin Ðại vương thả nó ra!
Vua nghe theo lời ngài.
– Tâu Ðại vương, trong cung thất có con nai thuần dưỡng nào chăng?
– Thưa Tôn giả, có chứ.
– Tâu Ðại vương, con nai ấy là trưởng đoàn. Nó nhớ nai cái và mòn mỏi vì nặng tình yêu thương nai cái nên nó thốt tiếng kêu thứ năm. Ðại vương không nên sợ hãi chuyện ấy.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ năm.
14. Ước gì rời chốn cung đình,
Ước gì giải thoát thân mình vui sao,
Uống dòng nước suối trong veo,
Dẫn đàn nai vẫn bước theo sau mình!
Bậc Ðại sĩ làm cho con nai được giải thoát và nói tiếp:
– Tâu Ðại vương, có con khỉ thuần dưỡng nào ở trong cung chăng?
– Thưa Tôn giả, có chứ.
– Con khỉ ấy là chúa đàn khỉ ở vùng Tuyết Sơn. Nó thích thú bầu bạn với đám khỉ cái. Trước kia nó được một thợ săn tên Bharata đem về đây. Nay nó đang mòn mỏi mong ước trở về chốn cư ngụ xưa nên nó thốt tiếng kêu ấy. Xin Ðại vương đừng sợ chuyện này.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ sáu.
15. Lòng ta nặng trĩu dục tình,
Với bao ước vọng thân mình nhiễm ô.
Bharata lạp hộ bắt ta,
Ước mong phước phận lão gia tràn trề!
Bậc Ðại sĩ bảo thả con khỉ ra và tiếp tục nói:
– Tâu Ðại vương, có vị tiểu thần nào giữ kho báu ở trong cung chăng?
– Thưa Tôn giả, có chứ.
– Tâu Ðại vương, vị ấy nhớ lại đời sống cũ với một nữ thần, vợ vị ấy, nên trong lúc đau khổ vì dục vọng đã thốt lên tiếng kêu thứ bảy. Một hôm, vị ấy cùng vợ trèo lên đỉnh non cao. Hai vị lượm hoa và tô điểm cho nhau nhiều loại hoa đủ màu sắc hương vị đặc biệt nên không hề lưu ý rằng mặt trời đang lặn và bóng đêm bao trùm trong khi họ leo xuống. Nữ thần bảo: “Này chàng, trời tối rồi, chàng hãy xuống cẩn thận kẻo ngã.” Và vừa nắm tay chồng, nàng vừa đưa chồng xuống. Chính vì nhớ lại các lời nói của vợ mà vị thần này thốt tiếng kêu. Ðại vương không cần phải sợ chuyện ấy.
Do tri kiến của ngài, ngài vừa giải thích trường hợp này một cách chính xác vừa ngâm vần kệ thứ bảy.
16. Bóng đêm dày đặc kéo về,
Trên non cao nọ tứ bề cô đơn.
“Xin chàng đừng ngã trượt chơn”,
Nàng khe khẽ nhắc bên sườn đá xưa.
Như vậy, bậc Ðại sĩ giải thích tại sao vị thần thốt tiếng kêu và ngài bảo thả vị ấy ra, rồi nói tiếp:
– Tâu Ðại vương, còn âm thanh thứ tám là tiếng reo cực lạc. Một vị Ðộc Giác Phật ở động Nandamūla biết rằng các hành (các điều kiện tái sanh) sắp đoạn tận đối với vị ấy, liền đến nơi cư trú của quần chúng và suy nghĩ: “Ta muốn chứng đắc Niết-bàn Vô dư y trong ngự viên của vua xứ Ba-la-nại. Quân hầu của vua sẽ chôn cất Ta, làm lễ cúng dường và cung kính Xá-lợi của Ta, nhờ vậy sẽ sinh lên cõi thiên.” Vị ấy dùng thần lực bay đến đây và ngay khi chạm mái hoàng cung, vị ấy liền buông xả gánh nặng sinh tử và ca khúc hoan lạc làm chói sáng lối vào cảnh giới Niết-bàn.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám do vị Ðộc Giác Phật cảm tác.
17. Tái sanh đã tận với Ta,
Không vào thai mẹ từ giờ về sau.
Ðây đời cuối ở địa cầu,
Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm trần.
Cùng với những lời cực lạc này, vị ấy đến ngự viên và đắc Niết-bàn Vô dư y dưới gốc cây sāla đang nở rộ hoa.
Rồi bậc Ðại sĩ đưa vua đến nơi vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn và chỉ cho vua phần nhục thân của Ngài. Thấy vậy, vua cùng đoàn quân đông đảo đem hương hoa đến cung kính làm lễ cúng dường.
Theo lời khuyên của Bồ-tát, vua đình chỉ việc tế đàn, cho mọi sinh vật được sống, truyền rao trống lệnh khắp kinh thành cấm sát sanh, cử hành đại lễ suốt bảy ngày, rồi làm lễ hỏa táng thân vị Ðộc Giác Phật rất trọng thể trên hỏa đài chất đầy hương liệu và xây tháp ở ngã tư đường.
Bồ-tát thuyết giảng Chánh pháp cho vua và khuyên nhủ vua tinh cần. Sau đó, ngài trở về Tuyết Sơn, thực hành tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) và không hề gián đoạn thiền định nên được sinh vào cõi Phạm thiên.
***
Sau pháp thoại, bậc Ðạo sư bảo:
– Thưa Ðại vương, không có gì nguy hiểm cho Ðại vương do các tiếng kêu ấy, vậy hãy đình chỉ tế đàn và ban sự sống cho các sinh vật này!
Rồi vua bảo truyền trống lệnh đi khắp kinh thành tha mạng các sinh vật.
Xong, Ngài nhận diện tiền thân:
– Thời ấy nhà vua là Ānanda, vị đệ tử Bà-la-môn là Sāriputta và nhà khổ hạnh chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.