Tam tạng Thánh điển PGVN 06 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 06»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 2
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU Dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN Dịch
§377. CHUYỆN BÀ-LA-MÔN SETAKETU (Setaketujātaka) (J. III. 232)
Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì...
Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo lừa dối. Câu chuyện sẽ được nói rõ trong Chuyện nam tử Uddālaka.[1]
***
Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là một giáo sư danh tiếng lừng lẫy và dạy thánh kinh cho năm trăm đồ đệ. Vị huynh trưởng trong bọn là Setaketu, xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn phương Bắc, vốn rất tự cao về giai cấp mình.
Một hôm, chàng ra khỏi thành phố cùng bè bạn, lúc trở về, chàng thấy một kẻ Chiên-đà-la (Caṇḍāla):
Chàng hỏi:
– Anh là ai?
– Tôi là một Chiên-đà-la.
Vị ấy sợ ngọn gió sau khi chạm vào người kẻ Chiên-đà-la sẽ đụng vào thân mình, nên thốt lên:
– Ðồ khốn kiếp, này tên Chiên-đà-la xui xẻo kia, hãy tránh gió mau!
Rồi chàng chạy nhanh về phía gió. Song kẻ Chiên-đà-la cũng nhanh chân bắt kịp chàng và đứng trước gió cản. Chàng lại càng phỉ báng mạ lỵ kẻ kia nhiều hơn nữa. Kẻ Chiên-đà-la hỏi:
– Ông là ai?
– Ta là một thư sinh Bà-la-môn.
– Tốt lắm, nếu vậy thì ông có thể đáp câu hỏi của tôi.
– Ðúng vậy.
– Còn nếu ông không đáp được, tôi sẽ kẹp ông lại giữa hai chân tôi đấy.
Vị Bà-la-môn đầy tự tin bảo:
– Cứ làm ngay đi.
Kẻ Chiên-đà-la muốn làm cả hội chúng hiểu chuyện này, liền hỏi:
– Này thanh niên Bà-la-môn, các phương hướng là gì?
– Ðó là bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Kẻ Chiên-đà-la bảo:
– Tôi không hỏi loại phương hướng đó, còn ông không biết ngay đến chuyện này, mà lại ghê tởm luôn cả ngọn gió đụng vào người tôi!
Thế là kẻ ấy chụp lấy vai chàng đè xuống kẹp vào giữa hai chân mình.
Các học trò kia đem chuyện ấy kể với thầy. Vị thầy bảo:
– Này cậu Setaketu, cậu đã bị kẹp giữa hai chân của một kẻ Chiên-đà-la ấy à?
– Thưa thầy, vâng, thằng oắt con, con của một tên nô lệ đã kẹp đệ tử giữa hai chân nó và bảo: “Ông này không biết ngay các phương hướng.” Nhưng nay đệ tử đã biết phải làm gì với nó rồi.
Và như vậy, chàng lại phỉ báng kẻ Chiên-đà-la một cách giận dữ. Vị thầy khuyên nhủ:
– Này cậu Setaketu, đừng giận nó, nó có trí tuệ cao đấy. Nó đã hỏi cậu về một loại phương hướng khác, chứ không phải loại này. Thứ mà cậu không thấy, không nghe, không hiểu, còn cao xa hơn thứ mà cậu đã thấy và nghe nữa.
Rồi ngài ngâm hai câu kệ để khuyến giáo:
8-9. Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì,
Trí cao vượt quá chuyện mình nghe,
“Một phương” phải hiểu là cha mẹ,
“Thầy giáo” được dùng chỉ hướng kia,
“Gia chủ” cho y phục, uống ăn,
Cửa thường rộng mở, chính là “phương”,
Còn “phương” trong nghĩa cao siêu nhất,
“Trạng thái vô ưu, lạc Niết-bàn.”
Như vậy, Bồ-tát giảng giải bốn phương cho thanh niên Bà-la-môn này, song chàng nghĩ: “Ta đã bị kẹp giữa hai chân một kẻ Chiên-đà-la”, liền rời nơi ấy và đến Takkasilā học đủ mọi môn nghệ thuật với một giáo sư danh tiếng lẫy lừng. Sau đó, được thầy cho phép, chàng rời Takkasilā, vừa du hành đây đó vừa học tập mọi nghề thực tiễn. Khi đến một làng biên địa, chàng gặp năm trăm nhà khổ hạnh sống gần đó và được thọ giới tu hành. Chàng học hỏi được mọi nghệ thuật, kinh điển và các phương pháp thực hành, rồi tất cả cùng vị ấy đi đến Ba-la-nại.
Hôm sau, chàng đi vào cung đình khất thực. Vua hoan hỷ trước phong cách các vị khổ hạnh, liền cúng dường thực phẩm ngay tại cung vua, và mời các vị ở lại ngự viên. Một hôm, vua bảo trong lúc cúng dường thực phẩm:
– Chiều tối nay trẫm sẽ đến đảnh lễ các Tôn giả ngay tại ngự viên.
Setaketu liền đến ngự viên, triệu tập các vị khổ hạnh và bảo:
– Các Tôn giả, hôm nay đức vua sẽ đến. Chỉ cần một lần hòa hợp với vua chúa, người ta có thể sống sung sướng suốt cả đời. Vậy bây giờ, một số vị làm kiểu khổ hình bằng cách lắc mạnh người, một số vị nằm trên giường gai, một số vị chịu đựng năm ngọn lửa, một số thực hành khổ hạnh bằng cách ngồi xổm, một số nhào lộn, một số đọc kinh.
Sau khi ra lệnh xong, chính vị ấy ngồi tại cửa am thất với gối dựa, đặt quyển sách bao bìa sáng loáng trên một giá gỗ có sơn và giảng kinh cho các học trò thông minh chừng bốn năm người. Vừa lúc ấy nhà vua đến, thấy họ đang diễn trò khổ hạnh giả dối này lại rất hài lòng. Vua đến gần Setaketu, kính vái chàng, rồi ngồi xuống một bên, sau đó ngâm vần kệ thứ ba nói chuyện với vị tế sư của hoàng gia:
10. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm kinh thánh, dáng bình an,
Chẳng từ nan mọi phương tiện hiền nhân,
Chắc đã đạt chân như và giải thoát.
Vị tế sư nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ tư:
11. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn,
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.
Khi vua nghe lời này, liền lấy lại mọi ân sủng dành cho những người khổ hạnh kia. Setaketu nghĩ thầm: “Nhà vua thích những người khổ hạnh, song tế sư này đã phá hoại như thể lấy rìu chặt ngang sở thích của vua. Ta phải nói chuyện với tế sư mới được.” Do thế, chàng ngâm vần kệ thứ năm nói chuyện với tế sư:
12. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngài bảo Vệ-đà là vật không cần,
Chỉ tu tập điều thân là thiết yếu.
Vị tế sư nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ sáu:
13. Không, Vệ-đà không hoàn toàn vô dụng,
Dù điều thân tu tập đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh.
Như vậy, vị tế sư bài bác giáo lý của Setaketu. Ngài khuyên những người khổ hạnh hoàn tục, cho họ gươm, giáo, mộc để làm quan thị vệ cao cấp hầu cận vua. Từ đó, người ta bảo dòng dõi quan thị vệ cao cấp xuất hiện.
***
Khi chấm dứt pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện tiền thân:
– Thời ấy, Setaketu là Tỷ-kheo lừa dối này, kẻ Chiên-đà-la là Sāriputta và tế sư của nhà vua chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.