Tam tạng Thánh điển PGVN 06 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 06»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 2
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU Dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN Dịch
§375. CHUYỆN CHIM BỒ CÂU (Kapotajātaka)[6] (J. III. 224)
Ta đây mạnh khỏe, dạ an vui...
Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.
Chuyện vị Tỷ-kheo tham lam này đã được kể đầy đủ theo nhiều cách. Ở đây, bậc Ðạo sư hỏi có thật ông tham lam chăng, và khi ông thú nhận quả đúng thế, Ngài bảo:
– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, ông cũng tham lam và đã chết vì lòng tham ấy.
Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm bồ câu con và sống trong lồng kết bằng liễu gai ở nhà bếp của một phú thương thành Ba-la-nại.
Bấy giờ, một con quạ thèm ăn cá thịt lại làm bạn với bồ câu này và sống cùng chỗ ấy. Một hôm, nó chợt thấy nhiều cá thịt liền nghĩ: “Ta sẽ ăn đám cá thịt này”, rồi nằm xuống rên rỉ trong lồng. Khi bồ câu đến bảo:
– Này bạn, ta cùng bay nhanh ra tìm mồi.
Quạ từ chối đáp:
– Tôi đang bị ốm liệt vì cơn đau bụng do bội thực, bạn đi đi.
Khi bồ câu khuất dạng, quạ tự nhủ: “Kẻ thù hay quấy phá ta đã đi rồi. Bây giờ ta muốn ăn thịt cá tùy thích.” Nghĩ vậy, quạ ngâm vần kệ đầu:
135. Ta đây khỏe mạnh, dạ an vui,
Vì chú bồ câu đã biến rồi,
Ta muốn làm cơn thèm dịu xuống,
Rau thơm cùng thịt khỏe thêm người!
Vì thế, khi người đầu bếp chiên cá thịt xong, vừa bước ra khỏi bếp vừa chùi mồ hôi chảy ròng ròng, con quạ nhảy ra khỏi tổ và giấu mình trong chậu gia vị. Chậu ấy phát ra tiếng “cạch” khiến người đầu bếp vội quay lại, tóm lấy con quạ vặt hết lông. Rồi ông ta xay một ít gừng tươi và hạt cải trắng, giã chung với chà là thối, bôi lên khắp mình con quạ, vừa xát mạnh thân nó với một mảnh sành làm cho nó bị thương nặng. Sau đó, ông ấy lấy sợi dây treo mảnh sành lên cổ nó rồi lại ném vào thúng và bỏ đi.
Khi bồ câu trở về thấy quạ, liền bảo:
– Ông hạc nào đây lại nằm trong thúng của bạn thân ta đó kìa? Bạn ta tính tình nóng nảy sẽ về giết chim lạ mặt này ngay.
Nói đùa thế xong, bồ câu ngâm vần kệ thứ hai:
136. Con mây này với chiếc mào cao,
Ngài chiếm chỗ chim bạn tớ sao?
Ông hạc đến đây, thân hữu quạ,
Tính tình nóng nảy, biết không nào?
Quạ nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:
137. Bạn cứ cười to trước cảnh này,
Ta lâm hoạn nạn đáng thương thay!
Hỏa đầu quân vặt lông trần trụi,
Gia vị chà là thối tẩm đầy.
Bồ câu vẫn còn muốn đùa, liền ngâm vần kệ thứ tư:
138. Tắm sạch dầu thơm xát ngạt ngào,
No say ăn uống thỏa dường bao!
Cổ ông sáng chói đồ trang sức,
Ông đến Ba-la-nại đó sao?
Quạ ngâm tiếp vần kệ thứ năm:
139. Bạn thiết hay cừu địch của ta,
Chớ đi Ba-la-nại bây giờ!
Mình trần chúng vặt còn trêu ghẹo,
Buộc mảnh sành trên ngực ấy mà!
Bồ câu nghe vậy, ngâm vần kệ cuối cùng:
140. Bỏ các thói hư tật xấu kia,
Tính tình như quạ khó làm ghê!
Chim nên thận trọng bay xa lánh,
Thực phẩm loài người ăn thỏa thuê.
Sau khi khiển trách quạ xong, bồ câu không ở lại đó nữa mà giương đôi cánh bay đi nơi khác. Nhưng quạ chết ngay tại chỗ.
***
Ðến đây, bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại và tuyên thuyết các sự thật. Vào lúc kết thúc các sự thật, vị Tỷ-kheo tham lam đã đắc quả Bất lai. Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
– Thuở ấy, con quạ là Tỷ-kheo tham lam này và bồ câu chính là Ta vậy.
Tham chiếu: M. III. 152, Upakkilesasutta (Kinh Tùy phiền não), số 128; Trường Thọ Vương bổn khởi kinh 長壽王本起經 (T.01. 0026.72. 0532c09). ↑
Tham chiếu: J. III. 488, Kosambījātaka (Chuyện ở Kosambī), số §428; M. III. 152, Upakkilesasutta (Kinh Tùy phiền não), số 128; Dh. v. 3-5; Vin. I. 337, Kosambakakkhandhaka (Chương Kosambī); Pháp cú kinh “Song yếu phẩm” 法句經雙要品 (T.04. 0210.9. 0562a11); Xuất diệu kinh “Phẫn nộ phẩm” 出曜經忿怒品 (T.04. 0212.15. 0693b19); Pháp tập yếu tụng kinh “Oán gia phẩm” 法集要頌經怨家品 (T.04. 0213.14. 0784a14). ↑
Xem J. III. 156, Sujātajātaka (Chuyện chàng Sujāta), số §352; J. III. 389, Somadattajātaka (Chuyện voi con Somadatta), số §410; J. IV. 60, Maṭṭakuṇḍalijātaka (Chuyện nam tử đeo vòng tai), số §449; J. IV. 84, Ghatajātaka (Chuyện Trí giả Ghata), số §454. ↑
Xem J. III. 121, Thusajātaka (Chuyện vỏ trấu), số §338. ↑
Tham chiếu: J. III. 58, Kaṇaverajātaka (Chuyện vòng hoa kaṇavera), số §318; Dh. v. 252; Xuất diệu kinh “Quán phẩm” 出曜經觀品 (T.04. 0212.28. 0736b06); Pháp tập yếu tụng kinh “Quán sát phẩm” 法集要頌經觀察品 (T.04. 0213.27. 0791b03). ↑
Xem J. I. 241, Kapotajātaka (Chuyện chim bồ câu), số §42; J. II. 360, Lolajātaka (Chuyện tham ăn), số §274. ↑
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.