Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 06  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 06»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 2
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU Dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN Dịch

Mục Lục

§370. CHUYỆN CÂY HỒNG PHƯỢNG VĨ (Palāsajātaka) (J. III. 208)

Ngỗng này nói với cội judas...

Câu chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về sự khiển trách dục tình. Sự việc dẫn đến câu chuyện sẽ được kể trong Chuyện kỹ nữ Ummadantī thuộc Nhóm Năm mươi kệ.[14]

Nhưng ở đây bậc Đạo sư bảo chúng Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, phải dè chừng dục tình. Dù dục tình nhỏ bằng một chồi cây đa, nó cũng có thể đưa đến sự hủy hoại. Các bậc Hiền trí ngày xưa cũng dè chừng điều gì có vẻ đáng nghi ngại.

Dạy thế xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, dưới triều Vua Brahmadatta, vua ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sanh ra là một con ngỗng vàng và khi lớn lên, ngài sống trong một cái hang vàng trong núi Cittakūṭa thuộc vùng Tuyết Sơn và thường đến ăn lúa hoang mọc ở trên một cái hồ thiên nhiên. Trên con đường ngài vẫn thường qua lại có cây hồng phượng vĩ (judas) lớn. Cứ mỗi bận đi và về, ngài đều dừng nghỉ tại đó. Vì thế, một mối tình bạn nảy sinh giữa ngài và vị thần sống trong cây ấy.

Thế rồi có một con chim nọ, sau khi ăn trái chín của cây đa, đến đậu trên cây hồng phượng vĩ và rớt phân vào nhánh chạc của cây ấy. Sau đó, một cây đa con mọc lên nơi ấy, cao tới một tấc và rực rỡ với những chồi đỏ, lá xanh. Ngỗng chúa thấy thế liền bảo với thần giữ cây:

– Này Hiền hữu, hễ cây nào bị chồi đa mọc đều bị hủy diệt vì chồi ấy lớn lên. Chớ để cho nó lớn lên, nếu không nó sẽ phá hủy chỗ ở của bạn đấy. Hãy trở về ngay, nhổ nó lên và ném nó đi! Ta phải dè chừng thứ gì tỏ ra đáng nghi ngại.

Nói với thần cây như thế xong, ngỗng đọc bài kệ đầu:

105. Ngỗng này nói với cội judas,

“Chồi của cây đa bám bạn kia,

Vật bạn vẫn nuôi trong bụng ấy,

E rồi sẽ xé bạn tơi ra.”

Nghe như vậy, vị thần cây không chú ý đến những lời ấy, đọc bài kệ thứ hai:

106. Ðể nó lớn lên, tôi sẽ là,

Nơi nương tựa của một cây đa,

Tôi săn sóc nó, tình cha mẹ,

Phước lạc cho tôi, nó tỏ ra.

Thế rồi, ngỗng đọc bài kệ thứ ba:

107. Sợ rằng đấy là mầm tai ách,

Sâu tận trong lòng, bạn vẫn nuôi.

Từ biệt bạn thôi, tôi bay vút,

Hỡi ơi, nó lớn, bực lòng tôi!

Nói xong những lời kia, ngỗng chúa dang rộng cánh và bay thẳng về núi Cittakūṭa. Từ đó, ngỗng không quay lại nữa. Thế rồi cây đa lớn lên. Cây này cũng có vị thần cây. Cây đa to lớn làm hư gãy cây hồng phượng vĩ, vị thần cây đổ xuống cùng với nhánh cây. Bấy giờ, nghĩ lại những lời của ngỗng chúa, vị thần cây tự bảo: “Vua của loài ngỗng đã thấy được mối nguy hại sắp tới và báo cho ta biết nhưng ta chẳng nghe lời vị ấy.” Sầu than như thế, thần đọc bài kệ thứ tư:

108. Quỷ hung cao tợ núi Tu-di,

Ðã đẩy ta vào cảnh khốn nguy,

Lời bạn ngỗng kia ta miệt thị,

Giờ đây ta ngập nỗi sầu bi.

Như vậy, cây đa khi lớn lên làm đổ nguyên cả cây hồng phượng vĩ xuống, làm cho nó chỉ còn trơ một gốc và chỗ ở của vị thần cây bị mất hẳn.

109. Người khôn sanh sợ loài tầm gửi,

Chèn nghẹt vật chi nó bám mình,

Bậc trí dè chừng nguy cỏ dại,

Diệt ngay rễ trước lúc mầm sanh.

Ðây là bài kệ được cảm tác do trí tuệ toàn hảo.

***

Bậc Ðạo sư chấm dứt bài giảng ở đây tuyên thuyết tứ đế. Ở phần kết thúc tứ đế, năm trăm vị Tỷ-kheo đắc Thánh quả và Ngài nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ, Ta là ngỗng vàng nọ.

  1. Xem J. III. 150, Sandhibhedajātaka (Chuyện lời gièm pha), số §349.

  2. Xem J. III. 196, Hirijātaka (Chuyện hổ thẹn), số §363; Sn. 45, Hirisutta (Kinh Xấu hổ).

  3. Xem J. I. 370, Sīlavīmaṁsanajātaka (Chuyện thử thách giới đức), số §86; J. II. 430, Sīlavīmaṁsajātaka, số §290; J. III. 18, Sīlavīmaṁsanajātaka, số §305; J. III. 100, Sīlavīmaṁsajātaka, số §330.

  4. Xem Sn. 45, Hirisutta (Kinh Xấu hổ).

  5. Xem J. I. 377, Akataññūjātaka (Chuyện kẻ vong ân), số §90.

  6. Xem J. III. 69, Succajajātaka (Chuyện dễ cho), số §320; J. III. 192, Vaṇṇārohajātaka (Chuyện sắc đẹp), số §361; J. III. 251, Āsaṁkajātaka (Chuyện thiên nữ Āsaṁka), số §380; S. I. 23, Ujjhānasaññisutta (Kinh Ujjhānasaññi); Sn. 45, Hirisutta (Kinh Xấu hổ); Thag. v. 261, Hāritattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Hārita); Thag. v. 225, Bākulattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Bākula); Thag. v. 320, Subhūtattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Subhūta).

  7. Tham chiếu: Dh. v. 205; Sn. 45, Hirisutta (Kinh Xấu hổ); Xuất diệu kinh “Ác hành phẩm”出曜經惡行品 (T.04. 0212.29. 0741b24); Pháp tập yếu tụng kinh “Tội chướng phẩm” 法集要頌經罪障品 (T.04. 0213.28. 0792a17).

  8. Xem J. VI. 330, Mahāummaggajātaka (Chuyện đường hầm vĩ đại). Chuyện này trong bản PTS là số 546. Bản Tích Lan viết Ummaggajātaka, số 546. Bản Thái Lan và Campuchia viết Mahosadhajātaka, số 542. Bản CST viết Umaṅgajātaka, số 542.

  9. Xem J. II. 267, Sālakajātaka (Chuyện con khỉ Sālaka), số §249.

  10. Xem J. I. 368, Kimpakkajātaka (Chuyện trái cây kimpakka), số §85.

  11. Tham chiếu: Dh. v. 125; S. I. 13, Phusatisutta (Kinh Xúc chạm); S. I. 164, Bilaṅgikasutta (Kinh Bilaṅgika); Sn. 123, Kokālikasutta (Kinh Kokālika); Pháp cú kinh “Ác hành phẩm” 法句經惡行品 (T.04. 0210.17. 0564c19); Xuất diệu kinh“Ác hành phẩm” 出曜經惡行品 (T.04. 0212.29. 0741b24); Pháp tập yếu tụng kinh “Tội chướng phẩm” 法集要頌經罪障品 (T.04. 0213.28. 0792a17).

  12. Các câu kệ 96-99, xem A. III. 54, Alabbhanīyaṭhānasutta (Kinh Sự kiện không thể có được); A. III. 57, Nāradasutta (Kinh Tôn giả Nārada).

  13. Xem J. I. 235, Losakajātaka (Chuyện Trưởng lão Losaka), số §41; J. I. 363, Mittavindajātaka (Chuyện chàng trai Mittavinda), số §82; J. I. 414, Mittavindajātaka, số §104; J. IV. 1, Catudvārajātaka (Chuyện bốn cổng thành), số §439.

  14. Xem J. V. 209, Ummadantījātaka (Chuyện kỹ nữ Ummadantī), số §527.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.