Tam tạng Thánh điển PGVN 06 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 06»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 2
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU Dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN Dịch
§282. CHUYỆN ĐIỀU TỐT HƠN (Seyyajātaka)[1] (J. II. 400)
Ðiều tốt nhất các khanh nên biết...
Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về một quan đại thần của xứ Kosala.
Ông này rất đắc lực cho vua và người ta kể rằng ông làm hết mọi việc cần làm. Vì ông rất đắc lực nên vua rất quý trọng ông. Các quan khác ganh tị, âm mưu hạ nhục và vu cáo ông. Vua nghe lời họ mà không tra xét tội trạng. Dù ông rất đức hạnh và vô tội, vua vẫn cho trói ông lại bằng dây xích và bỏ ông vào ngục. Ông sống cô đơn trong ngục, nhưng nhờ đức hạnh ông vẫn an tâm; và nhờ tâm an tịnh, ông hiểu được những điều kiện của sự sống và ông đắc quả Dự lưu. Ít lâu sau, vua nhận ra ông vô tội nên phá bỏ xiềng xích cho ông và tôn quý ông còn hơn trước kia nữa. Ông muốn được bày tỏ lòng tôn kính trước bậc Ðạo sư nên mang hương hoa đến tinh xá, đảnh lễ đức Phật rồi kính cẩn ngồi một bên. Bậc Ðạo sư ân cần nói với ông:
– Chúng tôi có nghe ông gặp vận xui.
Ông thưa:
– Bạch Ngài, vâng, nhưng con đã làm cho vận xui ấy trở thành tốt, trong lúc ngồi tù, con đã đắc quả Dự lưu.
Bậc Ðạo sư bảo:
– Này Hiền hữu, không phải chỉ có ông là người đã đổi xấu thành tốt, những bậc trí giả ngày xưa cũng đã đổi cái xấu thành cái tốt như ông vậy.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
***
Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra là con của chánh cung hoàng hậu. Ngài lớn lên và được giáo dục tại Takkasilā. Khi vua cha mất, ngài lên ngôi và giữ đúng mười điều luật của một vị vua; ngài bố thí, hành thiện và chấp trì ngày trai giới.
Một quan đại thần kia đã thông gian với những cung phi của vua. Các tôi tớ biết được và kể cho vua nghe, người nọ đang tiến hành một âm mưu. Nhà vua khám phá ra đúng sự thật của việc ấy rồi gọi ông ta lại:
– Ðừng bao giờ để cho ta thấy mặt ngươi nữa!
Vua bảo thế rồi đuổi ông ta đi. Ông quan bỏ đi đến triều đình của một vị vua láng giềng, thế rồi mọi sự việc xảy ra như đã tả ở Chuyện Vua Sīlavā vĩ đại.[2] Ở đây cũng thế, vị vua này ba lần thử ông, tin theo ông và dẫn một đạo quân lớn đến Ba-la-nại để mong xâm chiếm. Ðược tin ấy, các tướng lãnh của vua xứ Ba-la-nại gần năm trăm vị đã nói với vua:
– Ông vua kia đã đến đây, phá hoại xứ sở để mong chiếm lấy Ba-la-nại. Xin cho chúng thần đi bắt ông ta!
Vua bảo:
– Ta không muốn giữ vương quốc bằng cách giết hại. Ðừng làm gì cả!
Ông vua cướp nước kia bao vây thành phố. Các đại thần lại đến gần vua và nói:
– Tâu Ðại vương, xin hãy lưu tâm. Hãy cho phép chúng thần bắt ông ta!
Vua phán:
– Không được làm gì cả! Hãy mở các cổng thành!
Rồi vua đoan nghiêm ngồi trên bệ, giữa các đại thần của triều đình.
Vua cướp nước vào thành, hạ các người giữ cổng rồi vào cung điện. Nơi đây, ông bắt giữ vua và các triều thần trói xích lại rồi tống tất cả vào ngục. Vua ngồi trong ngục thương xót kẻ cướp nước kia, nỗi xót xa cùng cực trào dâng trong ngài. Do lòng thương xót kia mà ông vua nọ bỗng cảm thấy giày vò bứt rứt trong thân, cả người như bị thiêu đốt gấp hai lần lửa bỏng. Bị ray rứt xốn xang vì trọng tội, ông ta hỏi các cận thần vì sao như vậy.
Họ trả lời:
– Ngài đã bắt giam một vị vua công chính, do thế mà ngài bị như thế kia.
Ông ta liền đến xin Bồ-tát thứ lỗi, giao trả lại vương quốc. Ông nói:
– Vương quốc của ngài phải là của riêng ngài. Từ nay về sau, xin hãy để các kẻ thù của ngài cho tôi lo liệu.
Rồi ông trừng phạt quan cố vấn xấu xa kia và quay trở về thành phố của mình.
Bồ-tát nghiêm trang ngồi trên bệ cao, trong lễ phục giữa triều thần, đọc cho họ nghe hai bài kệ sau:
94. Ðiều tốt nhất các khanh nên biết,
Việc tốt hơn hãy quyết lòng làm,
Kẻ kia, ta đối thiện tâm,
Nên ta cứu tử được năm trăm người.
95. Khuyên các khanh với đời hãy tỏ,
Vẻ khoan dung đức độ, hiền hòa,
Cõi trời vào hết chẳng riêng,
Dân Kāsi hỡi, hãy liền nghe ta!
Như vậy, bậc Ðại sĩ ca ngợi đức hạnh về lòng từ bi đối với đại chúng. Sau đó, ngài rời ngai vàng trong kinh thành đồ sộ Ba-la-nại rộng tới mười hai do-tuần để đi vào dãy Tuyết Sơn sống đời tu hành.
Bậc Ðạo sư với trí tuệ toàn hảo đọc vần kệ thứ ba:
96. Ta là Ðại đế Ba-la-nại,
Vua Kaṃsa có bấy nhiêu lời:
“Cung tên ta đã bỏ rời,
Thành người tự thắng, ta thời nên công.”
***
Khi bậc Ðạo sư kể xong pháp thoại này, Ngài nhận diện tiền thân:
– Bấy giờ, Ānanda là ông vua cướp nước kia, còn vua xứ Ba-la-nại chính là Ta vậy.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.