Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 06  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 06»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 2
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU Dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN Dịch

Mục Lục

§160. CHUYỆN CON NGỖNG VINĪLAKA (Vinīlakajātaka) (J. II. 38)

Giống Vua Videha...

Câu chuyện này, khi trú ở Trúc Lâm, bậc Ðạo sư kể về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bắt chước bậc Thiện Thệ.

Khi hai vị Đại đệ tử[9] đi Gayāsīsa,[10] tại đấy Devadatta bắt chước bậc Thiện Thệ và gặp nạn. Hai vị Trưởng lão thuyết pháp và đem các vị Tỷ-kheo y chỉ mình đi về Trúc Lâm. Bậc Ðạo sư hỏi:

– Này Sāriputta (Xá-lợi-phất), khi thấy các ông, Devadatta đã làm gì?

Hai vị thưa:

– Bạch Thế Tôn, Devadatta đã bắt chước bậc Thiện Thệ và đã gặp đại nạn.

Bậc Ðạo sư nói:

– Này Sāriputta, không phải chỉ nay Devadatta mới bắt chước Ta và gặp nạn mà thuở xưa, cũng đã như vậy rồi.

Nói xong, theo lời Trưởng lão thỉnh cầu, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.

***

Thuở xưa trong nước Videha, khi Vua Videha trị vì thành Mithilā, Bồ-tát nhập mẫu thai bà hoàng hậu. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài được học tất cả tài nghệ ở Takkasilā, rồi khi vua cha mạng chung, Bồ-tát lên ngôi kế vị.

Lúc bấy giờ, một vị vua ngỗng trời sắc vàng sống chung với một con quạ cái ở bãi mồi và đẻ ra một ngỗng đực. Con chim ấy không giống mẹ cũng không giống cha, toàn màu xanh tối và được gọi là Vinīlaka. Vua ngỗng trời thường đi đến thăm con. Rồi hai ngỗng trời con khác được sanh ra rất giống cha. Thấy cha thường hay đi đến thế giới loài người, chúng bèn hỏi cha lý do. Ngỗng cha nói:

– Các con thân, cha đã sống chung với một con quạ cái và sanh một con ngỗng đực tên là Vinīlaka. Vì thế ta hay đi đến thăm nó.

Ngỗng con hỏi:

– Thế bọn chúng sống ở đâu?

– Hiện nay nó sống ở nước Videha, không xa Mithilā bao nhiêu, trên ngọn cây cọ dừa (tāla).

– Thưa cha thân, sống giữa thế giới loài người thật nguy hiểm, đáng sợ hãi. Cha đừng đi đến đó. Chúng con sẽ đi và đem nó về cho cha.

Hai ngỗng trời con được cha chấp thuận, liền đi đến chỗ ấy, bảo con ngỗng Vinīlaka ngồi trên một thanh cây, rồi chúng cắn hai đầu thanh cây và bay ngang qua thành Mithilā.

Trong lúc ấy, Vua Videha đang ngồi trên cỗ xe lộng lẫy được đàn ngựa Sindh thuần chủng gồm bốn con toàn trắng, kéo đi vòng quanh thành phố. Vinīlaka thấy vua liền suy nghĩ: “Ta và Vua Videha nào có khác gì. Vua ngồi trên cỗ xe được bốn ngựa Sindh kéo đi vòng quanh thành phố, còn ta ngồi trên cỗ xe được các con ngỗng trời kéo và đi trên hư không!” Khi nó đi ngang qua hư không, nó đọc lên bài kệ đầu:

19. Giống Vua Videha, Ðược các ngựa thuần chủng,

Kéo ngang các ngôi nhà, Tại thành Mithilā.

Cũng vậy, Vinīla, Ðược hai ngỗng trời chở,

Giữa hư không bao la!

Các ngỗng trời con nghe lời nói ấy của Vinīlaka rất phẫn nộ. Trước tiên chúng có ý định: “Chúng ta sẽ bỏ nó rơi xuống ở đây và bay đi.” Nhưng nghĩ lại: “Làm vậy, cha chúng ta thế nào cũng la mắng chúng ta.” Vì sợ bị cha mắng, chúng đưa Vinīlaka đến với cha và kể cho cha nghe việc ngỗng kia đã làm. Ngỗng trời cha tức giận nói:

– Ngươi hơn các anh ngươi sao? Ngươi làm ra vẻ cao sang, tưởng mình là chúa tể và xem các anh ngươi như ngựa kéo xe à? Ngươi không biết tự lượng sức? Ðây không phải chỗ tìm mồi của ngươi. Hãy đi về chỗ ở của mẹ ngươi!

Sau khi mắng nó, ngỗng cha đọc bài kệ thứ hai:

20. Vinīla, con thân, Sống ở đây nguy hiểm,

Ðây không chỗ cho ngươi, Hãy sống tại cổng làng,

Nơi mẹ ngươi mong đợi, Hãy đến đó vội vàng!

Cùng với lời la mắng Vinīlaka như vậy, ngỗng trời bảo các con:

– Hãy mang con này đem ra chỗ phóng uế là bãi phân ngoài thành Mithilā!

Và chúng làm theo lời cha bảo.

***

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện tiền thân như sau:

– Lúc bấy giờ, Vinīlaka là Devadatta, các ngỗng trời con là hai đệ tử đầu tay, ngỗng trời cha là Ānanda, còn Vua Videha là Ta vậy.

  1. Tham chiếu: Dh. v. 223; Pháp cú kinh “Phẫn nộ phẩm” 法句經忿怒品 (T.04. 0210.25. 0568a03); Xuất diệu kinh “Phẫn nộ phẩm” 出曜經忿怒品 (T.04. 0212.15. 0693b19); Xuất diệu kinh “Khuể phẩm” 出曜經恚品 (T.04. 0212.21. 0713b06); Pháp tập yếu tụng kinh “Sân khuể phẩm” 法集要頌經瞋恚品 (T.04. 0213.20. 0787a09).

  2. Xem J. V. 109, Tesakuṇajātaka (Chuyện ba con chim), số §521.

  3. Xem Dh. v. 223.

  4. Xem JPTS. 1893, p. 26.

  5. Bản Tích Lan viết Gaggajātaka. Bản CST và Thái Lan viết Bhaggajātaka. Xem Cv. V. 139.

  6. Xem SBE. vol. II, p. 3.

  7. Xem J. III. 130, Saṁvarajātaka (Chuyện Vương tử Saṁvara), số §462.

  8. Xem J. I. 381, Mahāsārajātaka (Chuyện đại bảo vật), số §92; Cv. XI. 290.

  9. Sāriputta and Moggallāna. Xem Cv. VII. 199.

  10. Tên một ngọn núi gần quận Gayā thuộc bang Bihar, nơi đức Phật thuyết bài pháp về Lửa cháy (Ādittapariyāyasutta) hóa độ ba anh em Tôn giả Uruvela Kassapa, Nadī Kassapa, Gayā Kassapa. Xem S. IV. 168.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.