Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ CHUYỆN THIÊN CUNG B. LÂU ĐÀI NAM GIỚI (PURISAVIMĀNA) / V. PHẨM ĐẠI XA (MAHĀRATHAVAGGA)

§52. CHUYỆN LÂU ĐÀI CỦA REVATῙ (Revatīvimānavatthu)26 (Vv. 49; VvA. 220)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú gần Bārāṇasī (Ba-la-nại), tại Isipatana (chư tiên đọa xứ), trong Lộc Uyển. Thời ấy, có một đệ tử cư sĩ bố thí rất hào phóng và phụng sự Tăng chúng tên Nandiya. Cha mẹ chàng muốn chàng cưới cô em họ Revatī; nhưng nàng không mộ đạo, không sẵn lòng bố thí, nên Nandiya không thích lấy nàng. Sau đó, bà mẹ bảo chàng:

– Nàng ấy sẽ theo lời khuyên của ta.

Thế là chàng bằng lòng và họ kết hôn với nhau, sinh được hai con trai.

Sau đó, Nandiya chuyên tâm bố thí rộng rãi, chàng xây một sảnh đường tại tinh xá ở Isipatana và dâng lên đức Như Lai, cùng rảy nước cúng dường vào tay Ngài. Ðồng thời, tại cõi trời Ba Mươi Ba xuất hiện một lâu đài rộng mười hai do-tuần với cả đoàn tiên nữ hầu cận.

Tôn giả Mahāmoggallāna du hành lên thiên giới, trông thấy lâu đài bèn hỏi đức Thế Tôn lâu đài ấy được dành cho ai. Ðức Thế Tôn ngâm kệ:

861.


 

Một người lữ khách tha phương,
An toàn lui gót cố hương trở về,
Thân nhân, quyến thuộc, bạn bè,
Ân cần chào đón tràn trề hân hoan.

862.


 

Cũng như thiện nghiệp đã làm,
Sẽ luôn chào đón sẵn sàng thiện nhân,
Một khi từ giã cõi trần,
Khác gì quyến thuộc đón mừng đời sau.27

Nghe điều này, Nandiya càng hân hoan bố thí và thực hành phước đức. Sau đó, chàng đi làm công việc xa nhà và dặn Revatī tiếp tục thi hành thiện sự với lòng tinh cần, nàng chấp thuận. Trong khi xa nhà, chàng vẫn tiếp tục cúng dường Tăng chúng và bố thí cho kẻ nghèo khổ nhưng vài ngày sau, nàng đã ngưng bố thí cho kẻ nghèo khổ, đem cúng dường thực phẩm loại xấu lên chư Tăng và rải số cá thịt vụn khắp nơi để chư Tăng bị khiển trách.

Khi Nandiya trở về nghe mọi chuyện, liền giao trả Revatī lại cho nhà cha mẹ nàng, nhưng vẫn cấp dưỡng nàng nhiều hơn. Một thời gian sau, chàng từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba Mươi Ba trong lâu đài đã được dành cho chàng. Phần nàng đã ngưng mọi việc bố thí cúng dường và vẫn còn nhục mạ chư Tăng:

– Chính vì họ mà tất cả tài sản và lợi lộc của ta đều giảm sút.

Lúc ấy, Thiên vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn) truyền bảo hai quỷ yakkha (dạ-xoa) đến Bārāṇasī thông báo rằng Revatī sẽ bị ném xuống địa ngục vào ngày thứ bảy kể từ hôm ấy. Dân chúng nghe chuyện này đều kinh hoàng, nhưng Revatī đi lên thượng lầu khóa cửa lại và ngồi xuống.

Sau một tuần, hai quỷ yakkha thật dễ sợ với bộ râu tóc sáng lòa, răng nhọn hoắt và mắt đỏ ngầu như máu bước vào bảo:

– Này Revatī tính tình độc ác kia hãy dậy đi!

Chúng chụp cổ nàng lôi kéo khắp phố phường để mọi người trông thấy rồi đưa nàng lên không gian đến cõi trời Ba Mươi Ba, xong lại dẫn xuống địa ngục đầy tội nhân mặc cho nàng than khóc thê thảm. Bọn ngục tốt của thần Yama (Diêm vương) thả nàng vào địa ngục đầy tội nhân ấy. Chuyện được kể như vầy:

863.




 

Này đứng lên, Revatī ác tánh,
Cửa đưa vào địa ngục đã mở toang,
Hỡi nữ nhân đủ các thói xan tham,
Ta sẽ dẫn ngươi vào miền ác thú,
Nơi kẻ đến phải khóc than sầu khổ,
Kẻ bị giam vào ngục chịu đau buồn

Chư vị kết tập kinh điển kể tiếp chuyện này:

864.


 

Nói vậy xong, hai quỷ dữ mắt hồng,
Thân đồ sộ là Diêm vương sứ giả,
Revatī, mỗi gã cầm một tay,
Khởi hành lên hội chúng của chư thiên.

Như vậy, được hai quỷ yakkha đưa lên cõi trời Ba Mươi Ba, Revatī được đặt gần lâu đài của Nandiya và nhìn thấy ánh sáng của lâu đài tỏa ra như mặt trời, nàng hỏi hai quỷ này:

865.


 

Lâu đài ai tấp nập cả quần tiên,
Ðang lấp lánh như mặt trời sáng chói,
Cõi thiên cung được bao vây bằng lưới,
Dệt vàng đang chiếu tựa ánh triêu dương?

866.


 

Ðoàn tiên nương tẩm đệ nhất chiên-đàn,
Tô điểm đẹp cho tiên cung mọi mặt,
Vẻ tráng lệ, lâu đài như vầng nhật,
Ai sanh thiên, đang hưởng cảnh lâu đài?

Bọn chúng bảo nàng:

867.



 

Xưa ở thành Ba-la-nại một người,
Có tên gọi Nandiya cư sĩ,
Không xan tham, chàng cúng dường hậu hỷ,
Ðây lâu đài chàng, thị nữ cả đoàn,
Ðang sáng bừng như ánh mặt trời quang.

868.


 

Ðoàn tiên nữ tẩm chiên-đàn đẹp nhất,
Ðang làm đẹp cho lâu đài mọi mặt,
Vẻ diễm kiều không khác ánh mặt trời,
Chàng sanh thiên, đang hưởng cảnh lâu đài.

Nàng đáp lại:

869.


 

Ta là vợ Nandiya thuở trước,
Nữ chủ nhân nắm quyền khắp gia tộc,
Nay muốn cùng chàng hưởng cảnh lâu đài,
Ta chẳng mong nhìn địa ngục trần ai.

Song bọn chúng bảo:

– Ngươi có mong muốn hay không thì có liên quan gì đến ta?

Và chúng ngâm kệ:

870.




 

Ðây địa ngục dành cho ngươi độc dữ,
Trong thế gian nơi loài người cư trú,
Phước đức không hề được chính ngươi làm,
Những kẻ nào đầy sân hận, xan tham,
Tính ác độc không thể nào đạt tới,
Cảnh đồng cư với người lên thiên giới

Nói vậy xong, hai quỷ yakkha biến mất ngay tại đó. Nhưng khi nhìn thấy hai ngục tốt tương tự sắp kéo nàng và thả vào Phẩn Nị địa ngục (địa ngục đầy phân dơ) tên là Saṃsavaka, nàng lại hỏi:

871.


 

Cái gì đây để lộ đám phân dơ,
Và nước tiểu bất tịnh bày như thế,
Cái gì đây mùi xú uế bốc ra,
Phân gì đó đang bồng bềnh trôi chảy?

872.
 

Saṃsavaka bách trượng sâu là đấy,
Revatī sẽ cháy mấy ngàn năm.

Nàng hỏi thêm:

873.
 

Những ác hạnh nào về khẩu, ý, thân,
Khiến ta đến Saṃsavaka bách trượng?

Chúng đáp:

874.

 

Các Sa-môn, Bà-la-môn, hành khất,
Ngươi đều đem lời dối trá phỉnh lừa,
Ðây chính là ác nghiệp tạo ngày xưa.

875.

 

Vậy ngục Saṃsavaka sâu bách trượng,
Chính là chốn Revatī thọ nhận,
Và bị thiêu đốt cả mấy ngàn năm.

Sau đó, chúng kể cho nàng nghe các khổ hình:

876.


 

Ngục tốt đem chặt đứt cả tay chân,
Chúng cắt cả đôi tai cùng chiếc mũi,
Và sau đó bầy quạ diều ùa tới,
Xâu xé người đang giãy giụa đằng kia

Nàng lại kêu gào van xin chúng đưa nàng trở lại cõi người:

877.



 

Tốt lành thay! Nếu ta được đưa về,
Ta sẽ tạo phước nhiều nhờ bố thí,
Sống chế ngự, tự điều thân, hoan hỷ,
Những người làm như vậy hạnh phúc tràn,
Và ngày sau không hối hận ăn năn.

Bọn ngục tốt đáp lời:

878.

 

Ngày xưa ngươi sống buông lung, phóng dật,
Nên ngày nay phải khổ đau than khóc,
Phải chịu bao nghiệp quả chính ngươi làm

Và nàng lại nói:

879.





 

Ai từ trên thiên giới xuống trần gian,
Phải nói vậy cùng ta, khi được hỏi:
“Nên cúng dường cho những người giữ giới,
Thức uống ăn, y phục với tọa sàng.
Còn kẻ nào đầy sân hận, xan tham,
Và ác tánh không thể nào cộng trú,
Với những người lên cõi trời, thiện thú.”

880.


 

Ví từ đây ta trở lại làm người,
Giữ giới và hào phóng sống trong đời,
Ta sẽ thực hiện biết bao thiện sự,
Do bố thí, công bằng, tâm chế ngự.

881.

 

Lòng tín thành, ta sẽ lập vườn hoa,
Và đắp đường trong khoảng đất hoang sơ,
Xây hồ nước, giếng đào cho dân chúng.

882.

 

Ngày mười bốn, ngày rằm, ngày đặc biệt,
Cùng với ngày thứ tám mỗi nửa trăng,
Ngày bát quan trai, giữ giới luật tám phần.

883.

 

Bố-tát giới, ta sẽ luôn phòng hộ,
Không phóng dật và giữ gìn đức độ,
Chuyên cúng dường, việc ta thấy thật lòng.

Các vị kết tập kinh điển kể tiếp chuyện này:

884.

 

Trong khi nàng giãy giụa, hét đau thương,
Chúng liền thả chân nàng, đầu lộn xuống,
Vào địa ngục kinh hoàng sâu trăm trượng.

Và nàng ngâm câu kệ cuối cùng:

885.


 

Ngày xưa ta vốn biển lận, xan tham,
Phỉ báng nhiều ẩn sĩ, Bà-la-môn,
Và lừa phỉnh chồng ta bằng lời dối,
Nay cháy trong ngục kinh hoàng u tối.

Các vị kết tập kinh điển kết luận bằng câu này:

Bấy giờ, không có thiên nữ nào trong lâu đài của Revatī, nhưng vì chuyện có liên quan đến việc Nandiya thiên tử đạt được lâu đài, nên nó cũng xếp vào phẩm Lâu đài nam giới.

Tham khảo:

26 Các câu kệ từ 863-85 tương tự kệ 714-36 trong Pv. 83, Revatīpetavatthu (Chuyện ngạ quỷ Revatī).
27 Xem Dh. v. 219-20.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.