Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ CHUYỆN THIÊN CUNG/ A. LÂU ĐÀI NỮ GIỚI (ITTHIVIMĀNA)/ III. PHẨM CÂY SAN HÔ (PĀRICCHATTAKAVAGGA)

§35. CHUYỆN LÂU ĐÀI CỦA PESAVATĪ (Pesavatīvimānavatthu) (Vv. 32; VvA. 156)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sāvatthi, ở Kỳ Viên. Thời ấy, trong làng Nāḷaka nước Ma-kiệt-đà (Magadha), có một nàng dâu trong nhà một gia chủ giàu tiền của.

Chuyện kể rằng nhiều kiếp trước, khi ngôi kim tháp rộng một do-tuần đang được xây để thờ đức Thế Tôn Kassapa, nàng còn là một thiếu nữ cùng đi với mẹ đến khuôn viên của đền thờ này và hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, các người này đang làm gì thế?

– Họ đang đúc gạch bằng vàng để xây tháp.

Khi nghe vậy, cô gái có tín tâm liền bảo mẹ:

– Mẹ ơi, ở cổ con có món nữ trang nhỏ này bằng vàng. Con muốn đem nó tặng vào ngôi bảo tháp.

– Thế thì tốt lắm, con hãy đem cúng nó đi!

Rồi tháo món nữ trang từ cổ con gái ra trao tận tay người thợ vàng, bà bảo:

– Ðây là phần đóng góp của con bé này. Hãy thêm nó vào viên gạch ông đang đúc nhé!

Người thợ vàng làm theo lời ấy.

Về sau cô gái từ trần và do công đức đặc biệt kia, được tái sanh vào thiên giới rồi lần lượt đi từ thiện thú này đến thiện thú khác. Vào thời đức Thế Tôn Gotama, nàng tái sanh ở làng Nāḷaka.

Một hôm, nàng được mẹ sai đi làm việc cho bà, nàng đem một ít tiền đến một tiệm mua dầu. Trong tiệm này, có một gia chủ đang đào đất để lấy một số lớn đồng tiền, vàng, ngọc trai, châu báu đủ loại đã được cha chôn giấu để dành từ xưa. Người chủ tiệm thấy rằng vì nghiệp quả của mình, chúng đã biến thành sỏi đá. Sau đó, vị ấy chất thành một đống, cất vào một nơi để quan sát chúng, tự bảo: “Do năng lực của những người đầy đủ công đức, chúng sẽ trở thành vàng bạc, đồng tiền như xưa.”

Bấy giờ, cô gái thấy vậy bèn hỏi:

– Sao các đồng tiền kahāpaṇa và châu báu được chất đống thế này? Hiển nhiên chúng cần phải được cất giữ đúng đắn mới phải.

Người chủ tiệm nghe vậy, tự nghĩ: “Cô gái này có đại phước đức. Nhờ cô ấy tất cả của cải này sẽ biến thành vàng bạc cả, và sẽ có giá trị cho ta. Ta sẽ đối xử với cô ấy thật ân cần, tử tế.”

Ông liền đến gặp mẹ nàng và xin cầu hôn nàng:

– Xin hãy gả con gái bà cho con trai tôi!

Ông trao tặng nàng một số tài sản lớn, tổ chức lễ cưới linh đình và rước cô gái về nhà mình.

Sau đó, nhận thấy rõ đức hạnh của nàng, ông mở kho gia bảo ra và nói:

– Con thấy cái gì đây?

Nàng đáp:

– Con chẳng thấy gì ngoài một đống tiền, vàng và châu báu.

Ông lại bảo:

– Các châu báu này đã biến mất vì kết quả các nghiệp ác của nhà ta, nay nhờ các nghiệp ưu thắng của con, chúng đã trở thành bảo vật. Vậy từ nay, chỉ mình con trong nhà này được cai quản mọi sự. Còn chúng ta sẽ chỉ dùng những thứ gì do con định đoạt.

Từ đó, mọi người biết nàng qua danh hiệu Sesavatī (Nữ phú gia).

Vào thời ấy, Tôn giả Tướng quân Chánh pháp Sāriputta biết các hành nghiệp của đời mình đã chấm dứt, bèn suy nghĩ: “Ta sẽ trao bảo vật cho mẹ ta, nữ nhân Bà-la-môn Rūpasārī, để làm nơi nương tựa cho bà rồi ta sẽ đắc Niết bàn vô dư y.”

Tôn giả liền đến gần đức Thế Tôn, thông báo cho Ngài biết Niết-bàn vô dư y của mình sắp đến, và theo lệnh của bậc Ðạo sư, Tôn giả thị hiện một phép đại thần thông rồi nói hàng ngàn lời tán thán đức Thế Tôn và khởi hành; mặt vừa hướng thẳng về phía Thế Tôn, vừa lùi dần cho đến khi khuất dạng Ngài.

Khi đã ra đi khuất dạng, Tôn giả còn đảnh lễ Ngài một lần nữa rồi được chúng Tỷ-kheo vây quanh, Tôn giả rời tinh xá. Tôn giả đưa huấn thị cho Tăng chúng xong, lại an ủi Tôn giả Ānanda và bảo tứ chúng quay về sau khi tiễn đưa Tôn giả. Vừa đúng lúc đến làng Nāḷaka, Tôn giả an trú mẫu thân của mình vào quả vị Dự lưu. Vào lúc rạng đông, Tôn giả đắc Niết-bàn vô dư y ngay ở trong căn phòng mà Tôn giả đã được sanh ra. Sau đó, cả chư thiên và loài người cùng làm lễ cung kính cúng dường di hài Tôn giả suốt bảy ngày. Họ làm dàn hỏa thiêu cao một trăm cu-bit (45m) với đủ loại chiên-đàn và hương liệu.

Nàng Sesavatī cũng nghe tin về Niết-bàn vô dư y của Tôn giả. Nàng bảo: “Ta sẽ đi đảnh lễ Ngài”, và dặn gia nhân đặt hoa bằng vàng đầy hộp và đem hương liệu đến, nàng muốn xin phép cha chồng ra đi.

Ông bảo nàng:

– Con đang mang thai và ở đó đông nghẹt cả người, vậy con nên ở nhà và gửi hương hoa đến thôi.

Tuy thế, nàng đầy tín tâm, suy nghĩ: “Cho dù có nguy hiểm đến tính mạng ta tại đó, ta cũng muốn đi hành lễ cúng dường.” Rồi không nghe lời khuyên của ông, nàng cùng các người hầu cận ra đi. Cúng dường hương hoa xong, nàng đứng chắp tay trước ngực trong dáng điệu sùng kính.

Vào lúc ấy, một con voi đang lên cơn động tình ở trong đoàn tùy tùng của hoàng gia đến làm lễ cúng dường Tôn giả Trưởng lão, thình lình chạy vào đó, khi mọi người thấy nó, liền hốt hoảng chạy trốn vì sợ chết, đám đông ấy giẫm chết Sesavatī, nàng đã ngã gục trong đám người chen lấn nhau. Nàng đã hoàn thành lễ cúng dường và từ trần với niềm tin đối với Tôn giả. Tâm đầy thành tín, nàng được tái sanh vào cõi trời Ba Mươi Ba.

Khi quan sát thành quả của nàng và suy luận ra nguyên nhân, nàng thấy chính là do lễ cúng dường Tôn giả Trưởng lão, nên với lòng thành tín hướng về Tam bảo, nàng cùng lâu đài của nàng du hành đến đảnh lễ bậc Ðạo sư. Vừa bước xuống khỏi lâu đài, nàng đứng chắp tay trước ngực trong dáng điệu sùng kính.

Thời ấy, Tôn giả Vaṅgīsa đang ngồi cạnh đức Thế Tôn, nói như vầy:

– Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi thiên nữ kia về công đức, phước nghiệp mà nàng đã làm.

Ðức Thế Tôn bảo:

– Này Vaṅgīsa, cứ làm như vậy đi.

Sau đó, Tôn giả Vaṅgīsa ngâm kệ tán thán lâu đài của nàng trước tiên:

646.




 

Với ánh sáng ngời của thủy tinh,
Bạc vàng bao phủ khắp chung quanh,
Lâu đài diễm lệ đầy màu sắc,
Ta thấy nơi cư trú hiển vinh,
Ðầy đủ cửa vòng cung chạm trổ,
Cát vàng rải rắc lối thiên đình.

647.


 

Như mặt trời xua bóng tối tan,
Về thu chiếu sáng khắp mười phương,
Lâu đài chói lọi trên thiên đỉnh,
Như cột lửa bừng ánh dạ quang.

648.


 

Chẳng khác nào tia chớp sáng lòa,
Khiến hồn mê mẩn giữa trời xa,
Vang lừng chũm chọe, đàn, kèn, trống,
Tráng lệ như thành phố Indra.

649.


 

Ðây đó hoa sen đỏ, trắng, xanh,
Hoa lài, dâm bụt đỏ đầy cành,
Anojakā, Sāla, Asoka (Vô Ưu) nở,
Cây đẹp tỏa hương ngát dịu lành.

650.


 

Viền quanh thông, mít, bhujaka,
Chằng chịt hoa leo đám cọ dừa,
Sen, súng đâm chồi như bảo ngọc,
Hồ sen tuyệt mỹ, hỡi tiên nga!

651.


 

Bất kỳ dưới nước có hoa nào,
Hoặc ở đất bằng hoa mọc sao,
Dù thuộc thiên thần hay hạ giới,
Chúng đều mọc ở tại lầu cao.

652.


 

Ðây là kết quả sự tu hành,
Ðiều phục tự thân, được hóa sanh,
Do nghiệp gì, lâu đài đạt được,
Hỡi nàng thiên nữ, nói cho minh?

Sau đó, thiên nữ đáp:
 

653.

Cách nào con đạt lâu đài này,
Có công, hạc, trĩ đến từng bầy,
Hồng nga, ngỗng xám, sơn ca hót,
Vang dội tiếng chim lảnh lót thay!

654.


 

Ðầy đủ cây hoa tỏa rộng cành,
Vô ưu, đào đỏ với kèn xanh,
Làm sao con đạt lầu thiên giới,
Tôn giả nghe con sẽ thuyết trình.

655.


 

Hưng thịnh miền Đông Ma-kiệt-đà,
Có làng tên gọi Nāḷaka,
Xưa làm dâu một nhà nơi ấy,
Dân chúng gọi con “Nữ phú gia.”

656.




 

Tâm con tràn ngập nỗi hân hoan,
Rải rắc hoa thơm khắp Đại nhân,
Ngài được trời, người đồng kính mộ,
Về tài thuyết pháp lẫn hồng ân,
Phước điền vô thượng là Tôn giả
Xá-lợi-phất vừa xả báo thân.

657.




 

Sau khi con kính lễ Ngài xong,
Ngài đã về nơi tối thượng tầng,
Ðại giác giả mang thân cuối ấy,
Con từ giã thể xác phàm trần,
Ði lên Tam Thập Tam thiên giới,
Con đến nơi này để trú thân.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.