Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ CHUYỆN THIÊN CUNG/ A. LÂU ĐÀI NỮ GIỚI (ITTHIVIMĀNA)/ III. PHẨM CÂY SAN HÔ (PĀRICCHATTAKAVAGGA)

§34. CHUYỆN LÂU ĐÀI RỰC RỠ (Daddallavimānavatthu)16 (Vv. 31; VvA. 149)

Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sāvatthi, ở Kỳ Viên. Thời ấy, trong một làng nhỏ của thị trấn Nāḷaka, có một người khá giả tình nguyện phụng sự Tôn giả Trưởng lão Revata (Ly-bà-đa). Người ấy được hai con gái: Một nàng tên Bhaddā, nàng kia là Subhaddā.

Bhaddā về nhà chồng, đầy đủ tín tâm và thông tuệ, nhưng nàng lại không sanh con. Nàng bèn nói với chồng:

– Thiếp có một em gái tên Subhaddā, hãy cưới em gái thiếp! Nếu em thiếp sanh con trai, nó cũng là con của thiếp và dòng dõi này không bị tuyệt tự.

Chồng bảo nàng:

– Ðược lắm

Và chàng làm theo đề nghị của vợ. Bấy giờ Bhaddā khuyên nhủ Subhaddā:

– Này em, hãy thích thú bố thí và tinh cần sống theo chánh hạnh, như vậy sẽ có nhiều lợi lạc cho em trong đời hiện tiền này và đời sau!

Một hôm, Subhaddā theo lời khuyên của chị và làm theo điều nàng bảo, thỉnh cầu Tôn giả Revata đến thọ thực cùng bảy vị khác. Chư vị đến nhà nàng. Ðầy đủ tín tâm, nàng tự tay phục vụ chư vị và thiết đãi Tôn giả Revata cùng chư Tỷ-kheo các món cao lương mỹ vị đủ loại cứng và mềm. Vị Trưởng lão nói lời tùy hỷ công đức rồi ra đi.

Về sau, Subhaddā từ trần và tái sanh vào hội chúng Hóa Lạc thiên. Còn Bhaddā, trước kia chỉ cúng dường cho các cá nhân riêng lẻ nên được tái sanh làm thị nữ của Thiên chủ Sakka.

Bấy giờ, Subhaddā nhân lúc suy nghĩ lại thành quả của chính mình, tự hỏi: “Vì công đức nào mà nay ta đã hóa sanh tại đây?” Và nhận ra chính nàng đạt được cảnh giới này do cúng dường Tăng chúng theo lời khuyên của Bhaddā. Rồi trong lúc nàng tự hỏi: “Thế Bhaddā nay ở đâu?” Nàng thấy chị nàng đã tái sanh làm thị nữ của Sakka, và do lòng thương tưởng chị kiếp trước, nàng bước vào lâu đài của chị. Lúc ấy, Bhaddā hỏi nàng:

619.


 

Chói lọi dung nhan đẹp rỡ ràng,
Hỡi nàng thiên nữ đại vinh quang,
Sáng ngời vượt hẳn bao thiên nữ,
Tam Thập Tam thiên giới vẻ vang.

620.


 

Ta chẳng nhớ ta đã gặp nàng,
Ðây lần đầu diện kiến dung nhan,
Từ thiên chúng cõi nào đi đến,
Và gọi tên ta thật rõ ràng?

Nàng ngâm hai vần kệ giải thích:
 

621.



 

Bhaddā, em chính Subhaddā,
Khi ở cõi người một kiếp xưa,
Em lấy chồng chung cùng chị đó,
Em là tiểu muội chị đây mà.

622.


 

Ðến lúc em thân hoại mạng chung,
Tự do giải thoát cõi hồng trần,
Về sau cộng trú cùng thiên chúng,
Hóa Lạc thiên vui thú tột cùng.

Bhaddā lại hỏi nàng:

623.


 

Những người làm thiện nghiệp an lành,
Ði đến cõi trời để tái sanh,
Em được sanh cùng thiên chúng ấy,
Subhaddā phát biểu phân minh.

624.


 

Nhưng làm sao có pháp môn nào,
Em được người nào dạy ở đâu,
Bố thí cách nào hành thiện sự,
Làm em sáng chói giữa trời cao?

625.


 

Ðã đạt đến danh vọng lẫy lừng,
Vinh quang xuất chúng, hưởng thiên ân,
Thiên nữ, khi em nghe lời hỏi,
Quả ấy nghiệp gì, hãy giải phân.

Subhaddā đáp:

626.


 

Cúng dường vừa đúng tám phần ăn,
Kiếp trước tự tay em hiến dâng,
Ðầy đủ tín tâm đem bố thí,
Chúng Tỷ-kheo xứng đáng chia phần.

627.


 

Vì thế sắc em đẹp thế này,
Và em vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
Yêu chuộng tức thì xuất hiện ngay.

628.


 

Xin trình thiên nữ đại oai thần,
Công đức em làm giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi em rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.

Sau đó, Bhaddā hỏi nàng:

629.


 

Với tự tay mình, đủ tín tâm,
Chị đem nhiều thực phẩm cúng dâng,
Sa-môn Phạm hạnh, thân điều phục,
Hơn cả em ngày trước đã làm.

630.




 

Sau khi đã bố thí nhiều hơn,
Chị đến với thiên chúng hạ tầng,
Sao em cúng ít hơn thời ấy,
Lại được vinh quang thật lẫy lừng?
Thiên nữ, khi em vừa được hỏi,
Nghiệp gì quả ấy, hãy phân trần.

Subhaddā lại nói:

631.


 

Xưa em gặp một vị tu hành,
Là bậc Thầy làm khởi tín thành,
Em thỉnh cầu Ngài về thọ thực,
Revata, với bảy vị đồng hành.

632.


 

Ngài chú tâm làm lợi hữu tình,
Vì lòng lân mẫn đối quần sanh,
Dạy em “bố thí lên Tăng chúng”,
Vì vậy em y giáo phụng hành.

633.


 

Lễ vật cúng dường lên chúng Tăng,
Trú an trong quả lớn vô ngần,
Chị đem bố thí từng người một,
Chẳng được hưởng nhiều quả phước ân.

Khi Subhaddā đã nói như vậy, Bhaddā chấp nhận ý nghĩa trên và ước mong đời sau sẽ nhiệt tình noi gương em nàng, bèn ngâm kệ:

634.




 

Nay biết cúng dường lên chúng Tăng,
Ðược nhiều phước quả lớn vô ngần,
Khi nào trở lại làm người nữa,
Chị sẽ chuyên tâm việc cúng dường,
Lên chúng Tỷ-kheo nhiều mãi mãi,
Lòng đầy hào phóng, chẳng xan tham.

Rồi Subhaddā trở lại thiên giới của nàng. Sau đó, khi Thiên chủ Sakka thấy thiên nữ ấy sáng chói nhờ hào quang của sắc thân nàng vượt trội hơn hẳn thiên chúng cõi trời Ba Mươi Ba, và đã nghe câu chuyện giữa hai nàng, nên ngay sau khi Subhaddā biến mất, ngài không biết nàng là ai, bèn hỏi Bhaddā:

635.


 

Ai là thiên nữ, hỡi Bhaddā,
Trò chuyện cùng nàng thật nết na,
Nàng ấy vượt lên về mỹ sắc,
Mọi thiên thần cõi Ba Mươi Ba?

Nàng tâu trình Thiên chủ:

636.




 

Tâu ngài Thiên chủ, ở phàm trần,
Kiếp trước sanh làm một nữ nhân,
Nàng đã cùng con làm tỷ muội,
Chúng con thời ấy lấy chung chồng,
Bởi vì nàng cúng dường Tăng chúng,
Nay sáng ngời lên với phước ân.

Sau đó, Thiên chủ Sakka thuyết pháp, nêu rõ thành quả vĩ đại của lễ vật đáng tuyên dương mà nàng đã cúng dường Tăng chúng:

637.


 

Ngày xưa, thiên nữ ấy em nàng,
Nhờ thiện pháp nay chiếu ánh quang,
Nàng đã cúng dường lên Thánh chúng,
Trú an trong quả lớn vô lường.

638.


 

Trước kia, trên đỉnh Linh Thứu sơn,
Ta hỏi Phật-đà, đức Thế Tôn,
Về sự kết thành do bố thí,
Nơi nào đem quả lớn khôn lường.

639.


 

Ðối với phàm nhân chúng hữu tình,
Cúng dường mong phước đức phần mình,
Nơi nào bố thí nhiều thành quả,
Mang lại cho người lúc tái sanh?

640.


 

Phật-đà trước đã hiểu tinh tường,
Nghiệp quả tạo nên bởi cúng dường,
Bố thí nơi nào đem quả lớn,
Nên Ngài giảng giải với ta rằng:

641.


 

Bốn người đang tiến bước lên đường,
Và bốn người đắc quả trú an,
Tăng chúng chánh chơn và chú trọng,
Thực hành Giới, Ðịnh, Tuệ tinh cần.

642.


 

Ðối với phàm nhân, chúng hữu tình,
Cúng dường mong phước đức cho mình,
Dâng nhiều lễ vật lên Tăng chúng,
Ðem quả lớn về lúc tái sanh.

643.




 

Vì Tăng chúng rộng lớn mênh mang,
Sâu thẳm không lường giống đại dương,
Ðệ tử bậc Anh hùng dưới thế,
Là người tối thắng giữa phàm nhân.
Nơi nào Tăng chúng đi truyền pháp,
Chư vị đều mang đến ánh quang.

644.




 

Những người đem lễ cúng chư Tăng,
Lễ vật cúng dường thật chánh chơn,
Bố thí, hiến dâng theo Chánh pháp,
Lễ kia mang quả lớn vô cùng,
Cúng dường lễ vật lên Tăng chúng,
Ðược các Phật-đà tán thán luôn.

645.




 

Tích đức này đây chính phước điền,
Những người kia tiến bước đi lên,
Giữa đời, tâm ngập tràn hoan hỷ,
Khi đã diệt ô nhiễm thấp hèn,
Của thói xan tham cho tận gốc,
Không còn lầm lỗi, sẽ sanh thiên.

Thiên chủ Sakka kể chuyện này với Tôn giả Mahāmoggallāna, Tôn giả lại trình lên Thế Tôn. Thế Tôn lấy đó làm một dịp thuyết pháp.

Tham khảo:

16 Xem S. I. 232, Yajamānasutta (Kinh Tổ chức lễ tế đàn); Kv. 553; Vv. 62, Vihāravimānavatthu (Chuyện lâu đài tinh xá).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.