Tam tạng Thánh điển PGVN 05 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ CHUYỆN THIÊN CUNG/ A. LÂU ĐÀI NỮ GIỚI (ITTHIVIMĀNA) / I. PHẨM SÀNG TỌA (PĪṬHAVAGGA)
§15. CHUYỆN LÂU ĐÀI CỦA UTTARĀ (Uttarāvimānavatthu)7 (Vv. 11; VvA. 62)
Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Rājagaha, ở chỗ nuôi sóc trong Trúc Lâm. Thời ấy, có một người nghèo tên là Puṇṇa, sống làm công cho một vị triệu phú, chủ ngân khố ở Rājagaha. Vợ y có tên Uttarā và con gái cùng tên Uttarā là hai người duy nhất trong nhà y.
Ngày kia, tại Rājagaha có lễ hội suốt bảy ngày. Ông triệu phú nghe tin đó nên khi Puṇṇa đến vào sáng sớm, ông bảo:
– Này chú, tất cả gia nhân ta đều muốn cử hành lễ hội, vậy chú muốn dự lễ hay muốn làm việc lấy tiền công?
Puṇṇa đáp:
– Thưa ông chủ, những việc như lễ hội để dành cho người giàu, chứ nhà con không có cả gạo để nấu cháo ngày mai nữa, lễ hội có nghĩa gì với con chứ? Nếu có đôi bò, con sẽ đi cày.
Ông chủ đáp:
– Ðược rồi, thế thì lấy bò ra.
Puṇṇa đem đôi bò lực lưỡng và cây cày tốt về bảo vợ:
– Nàng ơi, dân chúng trong thành đang làm lễ hội. Còn ta sắp đi làm công vì nhà ta nghèo. Nhưng ngày hôm nay, nàng hãy nấu gấp đôi phần ăn dành cho ta và đem đến chỗ ta!
Sau đó, y ra đồng. Bấy giờ, Trưởng lão Sāriputta đã nhập Diệt định suốt bảy ngày; vừa xuất định, bèn quán sát thế giới và suy nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ có dịp làm ơn cho ai?”
Tôn giả thấy Puṇṇa xuất hiện trong phạm vi nhận thức của mình, liền quán sát thêm và suy nghĩ: “Nay người này có phải là thiện nam tử chăng? Y có thể làm ơn cho ta chăng?” Khi nhận thấy Puṇṇa là một thiện nam tử có khả năng làm phước, và vì thế sẽ tạo nên kết quả lớn cho y, Tôn giả cầm y bát đi ra đồng nơi y làm việc cày bừa rồi đứng đó nhìn vào bụi cây ở cuối bờ ruộng.
Ngay khi Puṇṇa thấy vị Trưởng lão, y ngừng cày, đảnh lễ Tôn giả với năm phần thân thể sát đất và tự nhủ:
– Vị ấy cần cái tăm xỉa răng.
Y đưa Tôn giả cái tăm xỉa răng đã làm sẵn sàng để dùng. Sau đó, Tôn giả kéo bình bát và khăn lọc nước từ túi xách ra rồi đưa cho y. Y tự nhủ: “Vị ấy cần nước uống.” Puṇṇa bèn cầm lấy khăn lọc nước, lọc nước uống và trao cho Tôn giả.
Tôn giả suy nghĩ: “Người này ở tại chính ngôi nhà cuối cùng trong làng. Nếu ta đi đến cửa nhà ấy, vợ y sẽ không thấy ta. Vậy ta sẽ đứng lại ngay tại đây cho đến khi vợ y bước ra đường cái với phần ăn của y.”
Tôn giả đợi ở đó một lát, và khi biết rằng vợ y đã lên đường, Tôn giả ra đi về phía thành phố. Khi người vợ thấy vị Trưởng lão trên đường, bà suy nghĩ: “Thỉnh thoảng ta có một vật xứng đáng để cúng dường thì ta lại không thấy ai xứng đáng để nhận nó. Thỉnh thoảng ta gặp một người xứng đáng, ta lại không có gì xứng đáng cúng dường. Song hôm nay, ta lại gặp một người xứng đáng, đồng thời ta lại có vật xứng đáng cúng dường. Chắc chắn, ngài sẽ làm ơn cho ta.”
Bà đặt đĩa thức ăn xuống đó, đảnh lễ vị Trưởng lão với năm phần thân thể sát đất rồi thưa:
– Bạch Tôn giả, xin hãy làm ơn nhận cho tôi tớ của Tôn giả mà không quan tâm đến món thực phẩm này ngon hay dở!
Lúc ấy, vị Trưởng lão đưa bình bát ra, khi bà cầm đĩa với một tay và trao thức ăn cúng dường Tôn giả bằng tay kia, Tôn giả bảo:
– Thôi đủ rồi!
Khi vừa đúng nửa đĩa được cúng dường, Tôn giả lấy tay che bình bát lại. Bà đáp:
– Bạch Tôn giả, một phần ăn không thể chia hai. Nếu Tôn giả không muốn làm ơn cho tôi tớ của ngài trong đời này, thì xin Tôn giả làm ơn cho đời sau. Con muốn cúng dường tất cả, chứ không phải để lại bất cứ vật gì.
Nói vậy xong, sau khi đặt mọi vật vào bình bát, bà phát nguyện:
– Ước mong con được dự phần vào đạo pháp mà Tôn giả đã chứng đắc!
Tôn giả đáp:
– Mong được như vậy!
Tôn giả nói lời tùy hỷ công đức lúc đang đứng, và khi Tôn giả đã ngồi xuống một nơi thuận lợi có nước chảy, Tôn giả thọ thực.
Người vợ ấy về nhà, kiếm một ít gạo và nấu cơm nữa.
Trong lúc Puṇṇa đã cày xong nửa thửa ruộng, và không thể nào chịu nổi cơn đói, y tháo cái cày ra khỏi đôi bò, đi vào bóng cây, ngồi xuống nhìn ra đường.
Bấy giờ, vợ y đang đi trên đường, cầm thức ăn và thấy y, bà suy nghĩ: “Chàng đang ngồi đó mong chờ ta vì bị cơn đói hành hạ. Giả sử chàng mắng chửi, bảo: ‘Nó đi trễ quá!’ Và giả sử chàng lấy gậy đánh ta, thì việc ta làm vừa rồi sẽ không có kết quả gì. Vậy ta sẽ nói trước với chàng để ngăn cản việc ấy.”
Với ý tưởng này trong trí, bà bảo:
– Thưa phu quân, hôm nay, ngay chính ngày duy nhất này, hãy tạo nhiệt tâm, tinh tấn, đừng làm cho việc thiếp vừa làm trở thành vô hiệu quả. Trong khi thiếp đang đem cơm cho chàng từ sáng sớm, thiếp thấy vị Tướng quân Chánh pháp đi trên đường. Thiếp cúng dường ngài phần ăn của chàng và sau đó về nhà nấu cơm lại và đem đây. Xin phu quân hãy tạo nhiệt tâm!
Y đáp:
– Nàng đang nói gì thế?
Và khi đã nghe câu chuyện, y đáp:
– Này nàng, nàng đã làm rất chánh đáng khi đem phần ăn của ta cúng dường bậc xứng đáng này. Hôm nay lúc tảng sáng, ta cũng cúng dường ngài cái tăm xỉa răng và nước súc miệng.
Và với tâm thành tín, y thỏa mãn với câu chuyện vợ y vừa kể rồi mệt mỏi vì ăn cơm trễ trong ngày, y kê đầu lên lòng vợ và ngủ thiếp đi.
Bấy giờ, tất cả phần đất được cày từ sáng sớm, gồm cả đất được nghiền nát, đều trở thành vàng sáng chói và luôn giữ vẻ rực rỡ như một đám hoa kaṇikāra màu vàng óng ả.
Khi Puṇṇa thức dậy, y nhìn và bảo vợ:
– Này nàng, ta thấy hình như cả đám đất được cày đã trở thành vàng. Nàng hãy cho ta biết, chẳng phải mắt ta bị lóa vì ta ăn cơm quá trễ lúc xế trưa đấy chứ?
Bà đáp:
– Thưa phu quân, thiếp cũng thấy đất có vẻ như thế.
Y đứng lên, đến đó cầm một cục đất đập vào đầu cái cày, thấy nó chính là vàng, bèn kêu to:
– Ô kìa, kết quả việc bố thí cúng dường vị Tướng quân Chánh pháp xứng đáng ấy đã xuất hiện ngay hôm nay rồi. Song rõ ràng là ta không thể hưởng riêng số tài sản quá lớn như vậy.
Y đổ đầy vàng vào cái đĩa vợ y đem lại và đi đến cung vua, khi được vua cho phép, y bước vào đảnh lễ và vua hỏi:
– Này nhà ngươi, có việc gì thế?
Y đáp:
– Tâu Hoàng thượng, hôm nay, mảnh đất hạ thần đã cày đều biến thành vàng khối cả và vẫn còn nguyên như vậy. Số vàng này cần phải được trình lên Hoàng thượng.
Nhà vua hỏi:
– Nhà ngươi là ai?
– Tiểu thần tên là Puṇṇa.
– Song nhà ngươi đã làm gì hôm nay?
– Tảng sáng nay, tiểu thần dâng cái tăm xỉa răng và nước súc miệng lên vị Tướng quân Chánh pháp và vợ tiểu thần dâng lên ngài thức ăn được đem đến cho tiểu thần.
Khi vua nghe vậy, ngài bảo:
– Ngay hôm nay, kết quả do bố thí cúng dường đã xuất hiện. Này nhà ngươi, ta sẽ làm gì đây?
– Xin Hoàng thượng phái nhiều ngàn chiếc xe đi chở vàng về dâng Hoàng thượng.
Nhà vua truyền đoàn xe ra đi.
Khi quân của vua cầm vàng lên và bảo:
– Vàng này thuộc về Hoàng thượng.
Mỗi thỏi vàng họ cầm đều hóa thành đất. Khi họ về trình vua, ngài hỏi họ:
– Các người nói gì khi cầm vàng?
Họ đáp:
– Chúng thần bảo vàng thuộc về Hoàng thượng.
Nhà vua bảo:
– Thế thì các ngươi hãy đến lần nữa và bảo trong lúc nhặt vàng: “Vàng này thuộc về Puṇṇa.”
Họ tuân lệnh. Mỗi thỏi vàng được nhặt lên vẫn giữ nguyên trạng. Họ mang vàng về chất thành đống trong sân chầu. Ðống vàng cao đến tám mươi cubit (khoảng 40 mét). Nhà vua triệu tập các thị dân đến hỏi:
– Người nào trong thành này có nhiều vàng như vậy chăng?
– Tâu Hoàng thượng, không.
– Thế phải tặng cái gì cho người có như vậy?
– Tâu Hoàng thượng, chiếc lọng của một đại phú chủ ngân khố (seṭṭhi).
Nhà vua phán:
– Hãy cho người ấy làm vị Ðại phú gia!
Rồi ngài trao cho y chiếc lọng Ðại phú gia và nhiều vàng bạc.
Lúc ấy, Puṇṇa trình nhà vua:
– Tâu Hoàng thượng, suốt thời gian qua, chúng thần ở đậu nhà người khác. Xin Hoàng thượng ban cho chúng thần một nơi để ở!
Nhà vua bảo:
– Thế thì hãy xem đây. Chốn này giống như rừng hoang. Hãy dọn dẹp sạch sẽ mọi sự và xây nhà mới!
Rồi vua chỉ cho y thấy cảnh nhà vị Ðại phú gia trước kia. Chỉ trong vài ngày, ngài đã truyền xây một nhà mới trên khuôn viên ấy rồi cử hành lễ tân gia và lễ nhận chức vụ cùng một thể. Y lại làm lễ cúng dường Tăng chúng, với đức Phật là vị thượng thủ suốt bảy ngày.
Sau đó, vị Ðại phú gia cũ ở Rājagaha đi hỏi con gái của Puṇṇa về làm vợ cho con trai ông. Y đáp:
– Tôi không muốn gả con gái tôi.
Vị Ðại phú gia bảo:
– Ðừng làm như vậy! Ông đã được may mắn ngay thời gian ông đang ở nhà chúng tôi. Nay hãy gả con gái ông cho con trai tôi!
Puṇṇa đáp:
– Con trai ông không phải là kẻ mộ đạo. Con gái tôi không thể sống thiếu sự nương tựa Tam bảo. Chỉ vì vậy mà tôi không muốn gả con gái tôi cho cậu ấy.
Sau đó, nhiều người có địa vị đến khẩn cầu y:
– Ðừng phá vỡ mối giao hảo của ông với ông này. Xin hãy gả con gái cho con ông ấy!
Y chịu theo lời khẩn cầu của họ và gả con gái đúng vào ngày rằm trăng tròn tháng Āsāḷhi (khoảng tháng Sáu, tháng Bảy). Nàng đi về sống với nhà chồng.
Từ khi về đó, nàng không được phép đến gần Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni, cũng không được bố thí cúng dường hoặc nghe pháp. Khoảng hai tháng rưỡi như vậy trôi qua, nàng hỏi các nô tỳ hầu cận:
– Nay mùa mưa còn lại bao lâu nữa?
– Thưa tiểu thư, còn nửa tháng.
Nàng nhắn tin với cha: “Tại sao cha lại thả con vào cảnh lao tù như vậy? Thà rằng trước kia cha đóng dấu trên người con và cho con làm nô tỳ kẻ khác còn hơn gả con vào trong một gia đình không có lòng tin vào đạo. Từ lúc đến đây, con không được phép làm một thiện sự công đức nào cả, thậm chí cũng không được nhìn một Tỷ-kheo.”
Bấy giờ, cha nàng sau khi bày tỏ nỗi buồn phiền, bèn nói: “Than ôi, thật khổ thân con ta!” Rồi truyền đem mười lăm ngàn đồng kahāpaṇa đến giao cho nàng và nhắn tin: “Trong kinh thành này có một kỹ nữ sang trọng tên là Sirimā. Mỗi ngày, nàng kiếm được một ngàn đồng tiền vàng (kahāpaṇa). Con hãy dùng số tiền này, nhờ người đưa nàng đến gặp con, trao nàng cho chồng con rồi con hãy tự mình thực hành mọi thiện sự như con muốn!”
Uttarā làm như vậy. Khi chồng nàng thấy Sirimā liền hỏi:
– Chuyện gì đây?
Nàng đáp:
– Thưa phu quân, trong nửa tháng này, xin hãy để cho cô bạn của thiếp săn sóc chàng; còn thiếp, suốt nửa tháng này, không muốn làm gì ngoài việc cúng dường, bố thí và nghe pháp.
Chồng nàng nhìn kiều nữ kia và dục vọng khởi lên, liền đồng ý ngay:
– Ðược rồi, tốt lắm.
Về phần Uttarā, nàng gởi lời cung thỉnh Tăng chúng, với đức Phật là bậc thượng thủ: “Bạch Thế Tôn, suốt nửa tháng này, xin Ngài và Tăng chúng đừng đi nơi nào khác, mà chỉ nhận lễ cúng dường tại đây.”
Khi nhận được sự đồng ý của bậc Ðạo sư, nàng nói:
– Từ nay cho đến Ðại lễ Tự tứ (Mahāpavāraṇā), ta sẽ có thể hầu cận bậc Ðạo sư và nghe pháp.
Với lòng hân hoan về việc ấy, nàng đi quanh, sắp đặt mọi sự cần làm trong nhà bếp, bảo: “Hãy nấu cháo cách này, làm bánh cách nọ!”
Bấy giờ, chồng nàng suy nghĩ: “Ngày mai là Ðại lễ Tự tứ.” Chàng vừa đứng ở cửa sổ nhìn ra nhà bếp vừa tự hỏi: “Bây giờ, không biết con bé ngốc nghếch này đang bận làm gì?” Chàng thấy nàng đang đi quanh, thân ướt đẫm mồ hôi, dính đầy tro bụi, lấm lem cả than lẫn bồ hóng do mọi việc chuẩn bị, liền nói:
– Con bé ngốc nghếch này không thụ hưởng xa hoa lạc thú trong một nơi như thế này. Nó cứ đi quanh quẩn với lòng hân hoan chỉ vì ước muốn hầu hạ các Tỷ-kheo trọc đầu.
Rồi chàng cười to và bỏ đi. Khi chàng bỏ đi, Sirimā đang đứng cạnh chàng và tự nhủ: “Nay chàng thấy gì khiến chàng cười to vậy?” Rồi nhìn ra cửa sổ ấy, nàng thấy Uttarā và suy nghĩ: “Chàng nhìn vợ và cười to, chắc có sự mật thiết giữa hai người.”
Bấy giờ chuyện kể rằng, mặc dù kiều nữ này đã làm khách mời suốt nửa tháng trong nhà này, tuy thế, vì nàng đang hưởng thụ xa hoa lạc thú, nàng quên nghĩ đến địa vị khách mời của mình, lại có ý tưởng: “Ta là chủ nhà này.”
Nàng đem lòng căm hận Uttarā và tự nhủ: “Ta sẽ phá nó”, liền đi xuống từ thượng lầu, vào nhà bếp và đến nơi người ta đang làm bánh, lấy cái muỗng lớn múc một ít dầu bơ nóng sôi, đi về phía Uttarā.
Uttarā thấy nàng đi đến, suy nghĩ: “Bạn ta đã làm ơn cho ta. Chu vi quả đất này quá hẹp, Phạm thiên giới quá thấp, song đức hạnh của bạn ta thật vĩ đại, vì nhờ nàng, ta mới có thể cúng dường và nghe pháp. Nếu ta tức giận nàng, thì dầu bơ này sẽ làm bỏng ta, nếu không, nó sẽ không làm bỏng ta.”
Dầu bơ ấy, dù được tưới trên đỉnh đầu nàng vẫn giống như nước lạnh vì toàn thân nàng được thấm nhuần từ tâm. Rồi khi các nô tỳ của Uttarā thấy Sirimā tiến đến phía họ sau khi đã múc đầy một muỗng bơ khác và suy nghĩ: “Bơ này cũng sẽ nguội lạnh sao?” Họ đe dọa nàng:
– Ơ kìa, ác nữ nhân kia! Sao ngươi dám tưới dầu sôi trên đầu bà chủ ta?
Rồi từ mọi nơi trong nhà bếp, họ xông tới lấy tay chân đấm đá nàng và xô xuống đất. Dù Uttarā muốn ngăn cản họ, nàng cũng không thể chặn họ được.
Sau đó, Uttarā đứng bên Sirimā, xua các nô tỳ lui ra và nói với Sirimā bằng giọng trách móc:
– Tại sao cô lại làm một việc tai hại như vậy?
Rồi nàng lấy nước ấm tắm cho kiều nữ và xoa đầu nàng ấy với loại dầu đã được lọc kỹ cả trăm lần.
Ngay lúc ấy, Sirimā nhận ra sự thực nàng chỉ là khách mời, bèn suy nghĩ: “Ta đã làm một việc tai hại khi rắc dầu sôi lên đầu nàng. Thậm chí nàng cũng không ra lệnh cho các nô tỳ: ‘Giữ lấy nó!’ Nàng lại còn xua họ đi ra khi họ đả thương ta và làm cho ta những việc đáng làm. Nếu ta không xin nàng thứ lỗi, đầu ta sẽ bị vỡ ra bảy mảnh.”
Nàng liền quỳ xuống chân Uttarā và nói:
– Xin bà tha thứ cho tôi.
Uttarā đáp:
– Ta là cô con gái còn có cha. Nếu cha ta tha thứ, ta sẽ tha thứ nàng.
– Thưa bà, tôi sẽ xin lỗi cả thân phụ bà là Ðại phú gia Puṇṇa nữa.
– Thân phụ Puṇṇa là người cha đã sanh ra ta trong vòng luân hồi sinh tử (saṃsāra). Song, nếu vị thân phụ đã sanh ra ta trong vòng không luân hồi (Nibbāna) tha thứ nàng thì ta sẽ tha thứ.
– Thế ai là vị thân phụ sanh ra bà trong vòng không luân hồi?
– Ðức Phật Chánh Ðẳng Giác.
– Tôi không quen biết Ngài. Làm sao bây giờ?
– Bậc Ðạo sư sẽ đến đây vào ngày mai với Tăng chúng của Ngài. Nàng hãy đem bất cứ lễ vật cúng dường nào nàng sắm được và đến đây xin Ngài tha thứ!
– Thưa bà, được lắm!
Sirimā nói xong, đứng dậy về nhà nàng, ra lệnh cho năm trăm nữ tỳ chuẩn bị nhiều loại món ăn cứng và mềm, và ngày hôm sau, nàng đem mọi lễ vật thiết đãi ấy đi đến nhà Uttarā rồi ngồi đợi, chứ không dám đặt thứ gì vào bình bát của Tăng chúng với đức Phật là vị thượng thủ. Chính Uttarā nhận lấy mọi lễ vật và sắp đặt mọi việc cả. Còn Sirimā và đoàn tùy tùng của nàng đợi khi buổi thọ thực hoàn tất, liền quỳ dưới chân bậc Ðạo sư. Lúc ấy, bậc Ðạo sư hỏi nàng:
– Cô có lỗi gì?
– Bạch Thế Tôn, hôm qua, con đã làm như vậy, như vậy, song bạn con đã chặn các nô tỳ ấy đang đả thương con. Thay vào đó, nàng đã làm ơn cho con. Con nhận thấy đức hạnh của nàng, bèn xin nàng tha lỗi, song nàng bảo với con rằng khi nào con được Thế Tôn tha lỗi thì “Ta sẽ tha lỗi.”
– Có đúng như cô ấy nói không, Uttarā?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạn con đã đổ dầu sôi lên đầu con.
– Thế lúc ấy con nghĩ gì?
– Con nghĩ: “Chu vi quả đất quá hẹp, Phạm thiên giới quá thấp, song đức hạnh của bạn con thật vĩ đại, bởi vì nhờ nàng giúp đỡ, con mới có thể cúng dường lễ vật và nghe pháp. Nếu con tức giận nàng thì dầu bơ ấy cứ làm bỏng con, còn nếu không thì nó không làm bỏng con.” Nghĩ như vậy, con đã làm cho nàng được thấm nhuần từ tâm tỏa rộng.
Bậc Ðạo sư bảo:
– Lành thay, lành thay Uttarā! Ta cần phải nhiếp phục hận sân như vậy.
Và để làm sáng tỏ ý nghĩa này: “Ta phải lấy vô sân nhiếp phục người sân hận, nhiếp phục người phỉ báng bằng cách không phỉ báng, nhiếp phục người mạ lị bằng cách không mạ lị, nhiếp phục người keo kiệt bằng cách đem cho tài vật của mình và nhiếp phục người nói dối bằng lời chơn thật.” Ngài ngâm vần kệ:
Ta lấy vô sân thắng hận sân,
Lấy hiền lương nhiếp phục tà gian,
Lấy hào phóng thắng người keo kiệt,
Lấy thật chân thắng kẻ vọng ngôn.
Khi Ngài đã ngâm vần kệ xong, Ngài thuyết giảng tứ đế, Uttarā được an trú vào quả Nhất lai. Còn chồng nàng và cha mẹ chồng nàng đều đắc quả Dự lưu. Về sau khi Uttarā từ trần, nàng tái sanh vào cõi trời Ba Mươi Ba.
Khi Tôn giả Mahāmoggallāna du hành lên thiên giới như đã tả ở trên, thấy thiên nữ Uttarā, bèn đặt câu hỏi nàng qua vần kệ bắt đầu với:
124. |
Nàng thiên nữ sắc đẹp siêu phàm, |
125. |
Vì sao nàng được sắc như vầy? |
126. |
Hỡi nàng thiên nữ đại oai thần, |
127. |
Nàng thiên nữ ấy hỷ tâm tràn, |
128. |
“Tính con không tật đố, ghen hờn, |
129. |
Vào ngày mười bốn với mười lăm, |
130. |
Con hành trì giới bát quan trai, |
131. |
Hại mạng sát sanh, con tránh xa, |
132. |
Hân hoan giữ ngũ giới tu hành, |
133. |
Bản thân giữ đạo đức nghiêm trang, |
134. |
Vì vậy sắc con đẹp thế này, |
135. |
Xin trình Tôn giả đại oai thần, |
136. |
Và bạch Tôn giả, xin hãy làm ơn nhân danh con, cung kính đảnh lễ chân Thế Tôn và nói: “‘Tín nữ có tên Uttarā cung kính khấu đầu đảnh lễ chân Thế Tôn’ được chăng? Thực sự, bạch Tôn giả, nếu đức Thế Tôn có tuyên bố cho con đạt được một trong các Sa-môn quả, thì điều ấy cũng không lạ gì.” |
Tham khảo:
7 Xem Thīg. v. 31, Mittātherīgāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Ni Mittā).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.