Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ KINH PHẬT TỰ THUYẾT/ TRÍCH LỜI GIỚI THIỆU KINH PHẬT TỰ THUYẾT

TRÍCH LỜI GIỚI THIỆU KINH PHẬT TỰ THUYẾT CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU

Kinh Udāna được dịch là Kinh Phật tự thuyết, nghĩa là những kinh này được đức Phật tự nói, do cảm xúc mạnh sinh khởi, không ai thỉnh Phật thuyết. Cũng có khi dịch là Kinh Vô vấn tự thuyết, nghĩa là không có người hỏi, đức Phật tự nói. Có khi được dịch là Kinh Những lời cảm hứng, nghĩa là lời nói đột khởi, do cảm xúc mạnh thúc đẩy, khi đức Phật tự mình chứng kiến những sự việc xảy ra xung quanh. Theo Upanishad, chữ Udāna có nghĩa là hơi thở, sinh mệnh (prāna, apāna, sumāna, vyāna, udāna) ở trung tâm cổ họng được phát ra.

Tập này gồm 8 phẩm, mỗi phẩm có 10 kinh. Như vậy, có 80 kinh tất cả. Để tiện tìm kiếm, khi viết (I. §2) thời hiểu là phẩm I, kinh số 2; khi viết (IV. §7) thời hiểu là phẩm IV, kinh số 7, v.v... Mỗi kinh gồm 2 phần, phần đầu văn xuôi, ghi nhận sự kiện hay câu chuyện do đức Phật chứng kiến hay do các Tỷ-kheo kể lại, và phần thứ hai là lời cảm hứng của đức Phật, phần lớn là bằng những thi kệ (gāthā), chỉ có 1, 2 bài kinh Udāna được chép bằng văn xuôi.

Trước hết là một số kinh liên hệ đến đời sống của đức Phật, như 3 kinh đầu, Phẩm Giác ngộ diễn tả đức Phật khi mới thành đạo, ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ-đề, suy tưởng đến lý 12 nhân duyên, thuận chiều và nghịch chiều rồi nói lên lời cảm hứng (Ud. I. §1-3). Ud. II. §1 nói đến tích chuyện đức Phật ngồi nhập định gặp mưa to gió lớn, rắn Mucalinda đã quấn lấy thân mình đức Phật để che chở cho Ngài. Ud. IV. §5 đề cập đến đức Phật bị các vị xuất gia, tại gia, vua chúa… đến làm phiền nhiễu nên Ngài bỏ đi vào núi một mình và sống với một con voi; con voi này cũng bị đàn voi quấy rầy nên đến sống một mình với đức Phật. Sự kiện khi đức Phật từ bỏ thọ hành và tuyên bố sau 3 tháng sẽ nhập Niết-bàn được Ud. VI. §1 diễn tả. Bữa cơm cuối cùng do thợ rèn Cunda cúng dường đức Phật cũng được đề cập. Sau bữa cơm ấy, đức Phật nhuốm bệnh và không bao lâu nhập Niết-bàn. Những sự tích trên giúp chúng ta có thêm một số tài liệu về lịch sử đức Phật.

Song song với các sự tích về đời sống đức Phật, tập Udāna nói đến khá nhiều về các đệ tử của đức Phật, như Sāriputta, Moggallāna, Kaccāna, Subhūti, Mahākassapa, Nanda,... Mahākassapa bị bệnh, đã tu định luôn bảy ngày để tự chữa trị (Ud. III. §7). Nanda ban đầu mê các tiên nữ nên tu hành, sau bị các đồng Phạm hạnh chỉ trích nên tinh tấn tu hành chứng quả A-lahán (Ud. III. §2). Sāriputta ngồi nhập định bị quỷ dạ-xoa đánh trên đầu (Ud. IV. §4, §7). Năm trăm Tỷ-kheo do Yasoja đứng đầu làm ồn bị đức Phật đuổi đi, sau đó tinh tấn tu hành chứng được quả A-la-hán (Ud. III. §3). Đức Phật khen Tôn giả Lakuṇḍaka Bhaddiya trong dung sắc xấu xí nhưng đã chứng quả giải thoát (Ud. VII. §5). Tôn giả Dabba Mallaputta nhập định hỏa giới tự thiêu trước chúng Tăng không để lại tro tàn (Ud. VIII. §9-10).

Tiếp đến là các đệ tử tại gia, như nữ cư sĩ Visākhā 2 lần đến yết kiến đức Phật, một lần vì có sự việc cần phải giải quyết với Vua Pasenadi (Ud. II. §9), một lần có đứa cháu trai chết nên đến thưa với đức Phật (Ud. VIII. §8). Sự tích 500 cung nữ của Vua Udena, trong ấy có Sāmāvatī bị chết thiêu cũng được đề cập. Vua Pasenadi nước Kosala được nói đến nhiều lần trong tập này. Có một lần Vua hỏi đức Phật có thể biết được các người tu hành có chứng quả hay không, đức Phật đã trả lời rằng với những người như Vua Pasenadi sống trong dục lạc thì khó lòng biết được quả chứng của các nhà tu hành (Ud. VI. §2). Bao giờ cũng vậy, giữa đức Phật và các ngoại đạo cũng có những va chạm, xung khắc và các tích này được ghi nhận khá nhiều trong tập Udāna. Trước hết là sự kiện khi Như Lai chưa xuất hiện thời các ngoại đạo được quần chúng cung kính cúng dường, nhưng khi Như Lai xuất hiện thời sự cung kính cúng dường bị giảm thiểu (Ud. II. §4; VI. §10). Cũng vì vậy, ngoại đạo thù hằn đức Phật và chúng Tăng; họ giết kỹ nữ Sundarī, đem chôn ở Jetavana để vu oan cho chúng Tăng (Ud. IV. §8). Một sự kiện khác, dân chúng ở Thūma do ngoại đạo xúi giục đổ cỏ và rác xuống giếng để ngăn đức Phật không uống nước được (Ud. VII. §9). Đôi khi, đức Phật dùng một vài hình ảnh để nói đến sự cố chấp của các ngoại đạo. Chúng ta nhớ câu chuyện các người mù rờ voi, diễn tả các ngoại đạo mỗi người chấp chặt chủ thuyết của mình (Ud. VI. §4). Một sự kiện khác là câu chuyện một du sĩ ngoại đạo tìm dầu cho vợ mình sắp sinh, đã vào kho vua uống quá nhiều dầu để đem dầu về cho vợ, nhưng vì uống quá nhiều nên bị đau đớn, lăn lộn, khốn khổ (Ud. II. §6). Ngoài ra, có nhiều vấn đề xã hội rất bình thường cũng được nói đến. Như đức Phật thấy đứa con nít hành hạ con rắn (Ud. II. §3), dân chúng Vương Xá tranh nhau cô kỹ nữ (Ud. VI. §8), hay chuyện dân Sāvatthi quá đắm say về dục (Ud. VII. §3-4) cũng được đức Phật đề cập và nói lên lời cảm hứng.

Trong 80 kinh của tập Udāna, 80 trường hợp được ghi nhận là đức Phật thuyết lên những lời cảm hứng sau khi cảm thấy xúc động trước một số sự kiện, và chính những lời cảm hứng mới thật là quan trọng trong tập Udāna này, vì đây là dịp đức Phật nói lên quan điểm của mình đối với những sự việc đã xảy ra xung quanh. Và chính những quan điểm ấy đã trở thành những giáo lý chính đức Phật đã trình bày và giảng dạy. Chúng ta cũng tìm được những pháp và tùy pháp mà đức Phật thuyết giảng ngang qua các lời cảm hứng ấy.

Trước hết là lý 12 nhân duyên hay lý duyên khởi được trình bày 3 lần, trong 3 kinh đầu Ud. I. §1-3, thuận chiều, nghịch chiều, thuận chiều và nghịch chiều, từ vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc cho đến duyên sanh-lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-não. Quá trình sanh tử của con người từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai được khéo cô đọng trong thuyết duyên khởi. Bao giờ cũng vậy, đức Phật nhắm đến trong dây chuyền sanh tử, 2 pháp dục và ái rất quan trọng. Và do vậy có nhiều lời cảm hứng đề cập đến dục và ái. Trong Ud. VII. §4, dân chúng Sāvatthi quá đắm say về dục nên đức Phật đã nói:

“Bị mù bởi các dục,
Bị ái dục bao trùm,
Bởi thân bằng phóng dật.
Họ đi đến già chết,

Bị bao phủ bởi lưới,
Lại còn bị trói buộc,
Như cá mắc miệng lưới,
Như bê bú sữa mẹ.”

 

Với ái, có thân yêu là có đau khổ. Khi Visākhā đến than với đức Phật có đứa cháu trai mới chết, đức Phật đã nói: “Những ai có chín mươi người thân yêu, những người ấy có chín mươi sự đau khổ. Những ai có tám mươi người thân yêu, những người ấy có tám mươi sự đau khổ. Những ai có bảy mươi... có sáu mươi... có năm mươi... có bốn mươi... có ba mươi... có hai mươi... có mười... có chín... có tám... có bảy... có sáu... có năm... có bốn... có ba... có hai... có một người thân yêu, những người ấy có một sự đau khổ.” (Ud. VIII. §8)

“Sầu, than và đau khổ,
Duyên thân ái, chúng có,
Do vậy người an lạc,
Là những ai ở đời,
Do vậy ai tha thiết,
Chớ làm thân, làm ái,

Sai biệt có ở đời,
Không thân ái, chúng không.
Người không có sầu muộn
Không có người thân ái,
Được không sầu, không tham,
Với một ai ở đời.”

Dục và ái đã có mặt thời có sanh y, có sự tiếp nối một đời sống, nên có sanh y là có đau khổ:

“Giữa làng, tại núi rừng,
Chớ quy về tự mình,
Các xúc được cảm thọ,
Với vị không sanh y,

Cảm thọ khổ và lạc,
Chớ quy về người khác.
Là do duyên sanh y,
Do đâu xúc, cảm thọ.”

 

(Ud. II. §4)

Khi đức Phật từ bỏ thọ hành (Ud. VI. §1), Ngài muốn cắt đứt mọi hành động sanh hữu:

 “Cân nhắc giữa Niết-bàn,
Bậc Ẩn sĩ từ bỏ,
Ưa thích hướng nội tâm,
Phá đổ ngã sanh hữu,

Và nguồn sanh của hữu,
Các hành động sanh hữu,
Thật định tĩnh an tịnh,
Như phá tan áo giáp.”

Trong nhiều kinh, đức Phật tán thán các đệ tử tu thiền định vì đó là con đường đưa đến giải thoát. Trong Ud. III. §5, Ngài Mục-kiền-liên ngồi thiền định tu thân hành niệm được đức Phật nói lên lời cảm hứng:

“Thân hành niệm an lập,
Tỷ-kheo thường thiền định,

Sáu xúc xứ chế ngự,
Tự chứng tri Niết-bàn.”

Trong Ud. III. §4, Ngài Xá-lợi-phất ngồi thiền định, để niệm trước mặt, không xa Thế Tôn bao nhiêu và Thế Tôn nói lên lời cảm hứng:

“Như ngọn núi bằng đá,
Cũng vậy vị Tỷ-kheo,
Như ngọn núi bằng đá,

Không động, khéo an trú,
Đoạn diệt được ngu si,
Không có bị dao động.”

Ngài Tu-bồ-đề (Subhūti) tu định Không tầm (Avitakkamsamādhi) được Thế Tôn tán thán và nói lời cảm hứng:

“Với ai, tầm quét sạch,
Không còn chút dư tàn,
Đạt được tưởng vô sắc,
Không đi đến thọ sanh.”

Nội tâm khéo cắt đứt,
Vượt qua ái nhiễm ấy,
Vượt khỏi bốn ách phược,

 

(Ud. VI. §7)

 

Nhưng đức Phật nhận thấy đối với chúng sanh, “khó thấy là vô ngã, khó thấy là sự thật”, nên đức Phật thường dạy cho các đệ tử biết quán chiếu về “vô ngã.”

“Trên dưới khắp tất cả,
Không còn có tùy quán,
Giải thoát vậy vượt dòng,
Không còn có rơi rớt,

Được giải thoát hoàn toàn,
‘Cái này chính là tôi.’
Trước chưa từng vượt qua,
Vào sanh hữu thọ sanh.”

 

(Ud. VII. §1)

Mục đích cuối cùng của sự tu hành là thành tựu giải thoát Niết-bàn, và trong tập Udāna có nhiều kinh về lời cảm hứng đề cập đến trạng thái Niết-bàn, một trạng thái khó dùng danh từ để diễn tả.

Bāhiya Dārucīriya tu tập, tưởng mình đã chứng quả A-la-hán được đức Phật dạy cho: “Vậy này Bāhiya, ông cần phải học tập như sau: ‘Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe; trong cái ngửi, nếm, xúc chạm sẽ chỉ là cái ngửi, nếm, xúc chạm; trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri.’ Như vậy, này Bāhiya, ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bāhiya, nếu với ông, trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe; trong cái ngửi, nếm, xúc chạm sẽ chỉ là cái ngửi, nếm, xúc chạm; trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri; thì ông không có cái ấy. Này Bāhiya, nếu ông không có cái ấy thì ông không ở trong ấy. Này Bāhiya, nếu ông không ở trong ấy thì ông không có đời này, không có đời sau, không có chặng giữa hai đời, như vậy là đoạn tận khổ đau.” (Ud. I. §10)

Đoạn sau đây cũng là đoạn diễn tả Niết-bàn trong lời cảm hứng bằng văn xuôi (Ud. VIII. §1): “Này các Tỷ-kheo, có xứ này (āyatana), tại đây không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió, không có Hư không vô biên xứ, không có Thức vô biên xứ, không có Vô sở hữu xứ, không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có đời này, không có đời sau, không có cả hai mặt trăng và mặt trời. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên. Đây là sự đoạn tận khổ đau.”

Đoạn tiếp cũng diễn tả trạng thái Niết-bàn: “Này các Tỷ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thì ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.” (Ud. VIII. §3)

Đây cũng là lời cảm hứng của Phật về trạng thái Niết-bàn giải thoát: “Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động; cái gì không có nương tựa, cái ấy không có dao động; không có dao động thì có khinh an; có khinh an thì không có thiên về; không có thiên về thì không có đến và đi; không có đến và đi thì không có diệt và sanh; không có diệt và sanh thì không có đời này, không có đời sau, không có khoảng giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau.” (Ud. VIII. §4).

Như vậy, trong tập Udāna này, ngang qua các câu cảm hứng do đức Phật thuyết lên, một số giáo lý căn bản đề cập pháp môn tu hành, đề cao mục đích tối hậu và sứ mệnh hoằng pháp của đức Phật cũng được diễn tả đến.

(Lời Giới thiệu Kinh Phật tự thuyết, 1982)

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.