Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ/ CHƯƠNG XX. SÁU MƯƠI KỆ (SAṬṬHINIPĀTA)

§263. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MAHĀMOGGALLĀNA(Mahāmoggallānattheragāthā) (Thag. 103; ThagA. III. 162)

Cuộc đời của ngài được kể với cuộc đời của ngài Sāriputta.1 Sau khi xuất gia một tuần, ở gần làng Kallavāla tại Magadha, trong khi du hành ngài bị hôn trầm thụy miên và được Thế Tôn dạy: “Này Moggallāna, biếng nhác không giống với im lặng của bậc Thánh.” Ngài liền tinh tấn chế ngự sự yếu đuối của mình. Khi chỉ nghe đề tài về các giới do đức Phật giảng dạy, ngài chứng được quả A-la-hán. Một thời, Thế Tôn ở tại Jetavana đã xác chứng ngài là bậc Thần thông đệ nhất. Các bài kệ của ngài được kết tập như dưới đây:

I

Khích lệ các Tỷ-kheo:

1149.

Chúng ta người ở rừng,
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định.

1150.

Chúng ta người ở rừng,
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi phá nhà lau.

1151.

Chúng ta ở gốc cây,
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định.

1152.

Chúng ta ở gốc cây,
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi phá nhà lau.

II

Với một kỹ nữ muốn cám dỗ ngài:

1153.

Với thân sườn bằng xương,
May dính với gân thịt,
Gớm thay đầy hôi thối!
Mang tay chân người khác,
Làm thân thể của mình!

1154.

Cái bị đựng đầy phân,
Ðược da bao bọc lại,
Ôi, con quỷ cái kia!
Với vú bị ung nhọt,
Thân ngươi chín dòng nước,
Luôn luôn được tuôn chảy.

1155.

Thân ngươi chín dòng nước,
Hôi thối tạo trói buộc,
Tỷ-kheo tránh thân ấy,
Như kẻ sạch tránh phân.

1156.

Nếu người khác biết ngươi,
Như ta biết được ngươi,
Người ấy tránh xa ngươi,
Như khi mưa tránh phân.

Người đàn bà ấy cảm thấy hổ thẹn, đảnh lễ vị Trưởng lão rồi thưa:

1157.

Thật là vậy, Ðại hùng,
Như Sa-môn, ngài nói:
“Ở đây, có kẻ đắm,
Như bò già trong bùn.”

Bậc Trưởng lão:

1158.

Ai nghĩ có thể nhuộm,
Bầu trời với màu nghệ,
Hoặc với màu sắc khác,
Kẻ ấy chỉ thất bại.

1159.

Tâm ta giống trời ấy,
Nội tâm khéo định tĩnh,
Chớ đem ác tâm đến,
Như chim rơi đống lửa.

1160.

Hãy xem bóng trang sức,
Nhóm vết thương tích tụ,
Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,
Nhưng không gì trường cửu.2

1161.

Hãy nhìn sắc trang sức,
Với châu báu, vòng tai,
Bộ xương, da bao phủ,
Sáng chói nhờ y phục.

1162.

Chân sơn với son, sáp,
Mặt thoa với phấn bột,
Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
Không mê bậc Cầu giác.

1163.

Tóc được uốn tám vòng,
Mắt xoa với thuốc son,
Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
Không mê bậc Cầu giác.

1164.

Như hộp thuốc mới sơn,
Uế thân được trang điểm,
Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
Không mê bậc Cầu giác.

1165.

Thợ săn bày lưới sập,
Nai khôn không chạm lưới,
Ăn mồi xong, ta đi,
Mặc kẻ săn nai khóc.

1166.

Bẫy thợ săn bị cắt,
Nai khôn không chạm lưới,
Ăn mồi xong, ta đi,
Mặc kẻ săn nai sầu.

III

Khi được tin Trưởng lão Sāriputta viên tịch:

1167.

Ôi, thật hãi hùng thay!
Ôi, lông tóc dựng ngược!
Bậc đủ nhiều đức tánh,
Xá-lợi-phất nhập diệt.

1168.

Các hành là vô thường,
Có sanh phải có diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.3

IV

Khi được tin Trưởng lão Sāriputta viên tịch:

1169.

Những ai thấy năm uẩn,
Là khác, không phải ngã,
Họ quán thấu tinh tường,
Như tên đâm ngọn tóc.

1170.

Những ai thấy các hành,
Là khác, không phải ngã,
Họ quán thấu thuần thục,
Như tên đâm ngọn tóc.

V

Nói về Trưởng lão Vaḍḍhamāna:

1171.

Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm đoạn tham dục.4

1172.

Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm đoạn tham hữu.

VI

Tuyên bố liên hệ đến Kinh Pāsādakampana:5

1173.

Ðược khuyên bảo bởi vị,
Ðã tu tập tự ngã,
Mang thân này tối hậu,
Với ngón chân ta làm,
Rung chuyển cả lâu đài,
Migāramātu.6

VII

Nói liên hệ với một Tỷ-kheo:

1174.

Không với nhu nhược này,
Không với ít lực này,
Có thể chứng Niết-bàn,
Giải thoát mọi buộc ràng.7

1175.

Vị Tỷ-kheo trẻ này,
Con người tối thượng này,
Chiến thắng ma, ma quân,
Mang thân này tối hậu.

VIII

Về đời sống viễn ly của mình:

1176.

Giữa đồi Vebhāra,
Giữa đồi Paṇḍava,
Sét đánh vào hang động,
Con bậc Vô Tỷ ấy,
Ðã đi vào hang núi,
Ðang ngồi nhập thiền định.

IX

Ði vào Rājagaha (Vương Xá) để khất thực, ngài khuyến giáo người cháu của Sāriputta, một Bà-la-môn có tà kiến, người này thấy Ngài Ðại Ca-diếp, cảm thấy ghê tởm như thấy một nữ thần bất hạnh:

1177.

An tịnh và thoải mái,
Ẩn sĩ trú vùng xa,
Thừa tự Phật tối thắng,
Ðược Phạm thiên tán thán.

1178.

Hỡi này Bà-la-môn,
Hãy đảnh lễ Ca-diếp,
Ngài là con thừa tự,
Bậc Giác Ngộ Tối Thắng,
Ẩn sĩ trú vùng xa,
An tịnh và thoải mái.

1179.

Vị trải trăm đời sống,
Ðều thuộc dòng Phạm chí,
Học giả giỏi Vệ-đà,
Sanh tiếp tục làm người.

1180.

Dầu là bậc Giáo sư,
Thấu triệt ba Vệ-đà,
Ðảnh lễ vị như vậy,
Chỉ giá một mười sáu.

1181.

Vị ấy trước bữa ăn,
Thấy được tám giải thoát.
Thuận hướng và nghịch hướng,
Rồi mới đi khất thực.

1182.

Chớ có đến tấn công,
Một Tỷ-kheo như vậy,
Hỡi này Bà-la-môn,
Chớ có đào tự ngã,
Hãy khởi ý tín nhiệm,
Vị La-hán như vậy,
Chắp tay đảnh lễ gấp,
Chớ để đầu ông hỏng.

X

Khi khuyến giáo một Tỷ-kheo tên Poṭṭhila:

1183.

Người không thấy Diệu pháp,
Dẫn đầu về luân hồi,
Chạy theo hướng tà đạo,
Ðường cong không nên đi.

1184.

Như con sâu dính phân,
Say mê theo các hành,
Ðắm sâu vào lợi danh,
Trống rỗng, hỡi Poṭṭhi.

XI

Tán thán Tôn giả Sāriputta:

1185.

Hãy xem Tôn giả này,
Xá-lợi-phất đẹp sắc,
Giải thoát cả hai phần,
Nội tâm khéo định tĩnh.

1186.

Không bị tên khát ái,
Các kiết sử đoạn tận,
Ba minh đã đạt được,
Sát hại xong thần chết,
Ðáng được người cúng dường,
Là ruộng phước vô thượng.

XII

Do ngài Sāriputta nói lời tán thán Moggallāna:

1187.

Có nhiều chư thiên này,
Có thần lực danh xưng,
Ðến mười ngàn chư thiên,
Tất cả Phạm Phụ thiên.
Họ đứng chắp hai tay,
Ðảnh lễ Mục-kiền-liên:

1188.

“Ðảnh lễ Thượng sanh nhân!
Ðảnh lễ Vô thượng nhân!
Lậu hoặc Ngài đã đoạn,
Ngài xứng được cúng dường.”8

1189.

Ðược trời, người đảnh lễ,
Ðã sanh, bậc thắng chết,
Như sen không dính nước,
Ngài không dính các hành.

1190.

Vị trong một sát-na,
Biết đời dưới ngàn cách,
Chẳng khác Ðại Phạm thiên,
Tỷ-kheo ấy thiên tử,
Ðầy đủ thần thông lực,
Thấy được những thời cơ,
Chết sống của mọi loài.9

XIII

Mahāmoggallāna nói lên, xác nhận khả năng của mình:

1191.

Xá-lợi-phất với tuệ,
Giới hạnh, an tịnh tâm,
Tỷ-kheo đến bờ kia,
Vị ấy thật tối thượng.

1192.

Nhưng ta ngay giây phút,
Ðến trăm ngàn triệu lần,
Biến hóa tự thân được,
Ta thiện xảo biến hóa,
Thuần thục với thần thông.

1193.

Dòng họ Moggallāna,
Sống thiền định, trí tuệ,
Ði đến bờ bên kia,
Không ái, giáo pháp đạt.
Hiền trí, các căn tịnh,
Chặt đứt các trói buộc,
Như voi bựt đứt ngang,
Dây leo đã mục nát.

1194.

Ta hầu hạ Bổn sư,
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.10

1195.

Sanh của ta đã tận,
Chiến Thắng dạy làm xong,
Lưới danh được đoạn diệt,
Gốc sanh hữu nhổ lên,
Mục đích hạnh xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ðích ấy đã đạt được,
Mọi kiết sử diệt xong.11

XIV

La mắng Māra đã vào và ra khỏi bụng ngài:

1196.

Ðịa ngục ấy thế nào,
Dūsi bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha.12

1197.

Có trăm loại cọc sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt,
Ðịa ngục là như vậy,
Dūsi bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha.

1198.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì người đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ.

1199.

Dựng lên giữa biển cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu,
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.

1200.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ.

1201.

Ai Thế Tôn khuyến khích,
Chúng Tỷ-kheo chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển,
Lầu mẹ Migāra.

1202.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ.

1203.

Với ngón chân rung chuyển,
Lầu Vejayanta,
Ðầy đủ thần thông lực,
Chư thiên cũng hoảng sợ.

1204.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ.

1205.

Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vejayan(ta):
“Hiền giả, ngươi có biết,
Ái tận, được giải thoát?”
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.

1206.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ.

1207.

Ai từng hỏi Phạm thiên,
Tại hội chúng Thiện Pháp:
“Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng,
Phạm thiên, cảnh thiên giới?”

1208.

Brahmā đã chân thành,
Tiếp tục đáp câu hỏi:
“Tôn giả tôi không chấp,
Các tà kiến thuở xưa.

1209.

Tôi thấy sự huy hoàng,
Phạm thiên, cảnh thiên giới,
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng, thường tại?”

1210.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ.

1211.

Ai với sự giải thoát,
Cảm xúc Cao sơn đảnh,
Rừng Đông Videha,
Và người nằm trên đất.

1212.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ.

1213.

Thật sự lửa không nghĩ:
“Ta đốt cháy kẻ ngu”,
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.

1214.

Cũng vậy này Ác ma,
Ngươi đột kích Như Lai,
Tự đốt mình, cháy mình,
Như kẻ ngu chạm lửa.

1215.

Ác ma tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng Ác ma,
Ác quả không đến ta?

1216.

Ðiều ác, Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác ma hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo.

1217.

Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhesakaḷā,
Vị dạ-xoa thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.

Như vậy, Tôn giả Mahāmoggallāna nói lên những bài kệ.

Tham khảo:

1 Xem Thag. 89; ThagA. III. 91, Sāriputtattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Sāriputta), số §259.
2 Tham chiếu: Thag. v. 769-75, 1019-25; M. II. 54, Raṭṭhapālasutta (Kinh Raṭṭhapāla), số 82; Dh. v. 147; Pháp cú kinh “Lão mạo phẩm” 法句經老耄品 (T.04. 0210.19. 0565b25); Pháp cú thí dụ kinh “Lão mạo phẩm” 法句譬喻經老耄品 (T.04. 0211.19. 0592b15); Xuất diệu kinh “Quán phẩm” 出曜經觀品 (T.04. 0212.28. 0736b06); Pháp tập yếu tụng kinh “Quán sát phẩm” 法集要頌經觀察品 (T.04. 0213.27. 0791b03).
3 Xem D. II. 72, Mahāparinibbānasutta (Kinh Đại Bát-niết-bàn), số 16; D. II. 169, Mahāsudassanasutta (Kinh Đại Thiện Kiến vương), số 17; S. I. 5, Nandanasutta (Kinh Vườn Hoan Hỷ); S. II. 190, Vepullapabbatasutta (Kinh Núi Vepulla); S. I. 157, Parinibbānasutta (Kinh Bát-niết-bàn); J. I. 392, Mahāsudassanajātaka (Chuyện Vua Đại Thiện Kiến), số §95.
4 Xem Thag. v. 39, 40; S. I. 27, Sakalikasutta (Kinh Miếng đá vụn); S. I. 53, Vāsudattasutta (Kinh Vāsudatta).
5 Xem S. V. 269.
6 Xem S. V. 269.
7 Kệ 1174-75 xem S. II. 277, Navasutta (Kinh Tân Tỷ-kheo).
8 Xem Thag. v. 620, Sunītattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Sunīta).
9 Xem Thag. v. 909.
10 Xem Thag. v. 604, 656, 687, 792, 891, 918, 1015, 1053, 1091.
11 Xem Thag. v. 135-36, 380, 605, 657, 793.
12 Xem M. I. 332, Māratajjanīyasutta (Kinh Hàng ma), số 50.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.