Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ/ CHƯƠNG XVII. BA MƯƠI KỆ (TIṂSANIPĀTA)

§260. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO ĀNANDA

(Ānandattheragāthā) (Thag. 91; ThagA. III. 109)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình Thích-ca Amitedana. Vì các bà con nói ngài sanh ra đem đến sự hoan hỷ cho gia đình nên được đặt tên là Ānanda (Khánh Hỷ). Khi lớn lên, các sự kiện xuất gia, giác ngộ, chuyển pháp luân được diễn ra; và sau khi Thế Tôn viếng thăm Kapilavatthu, ngài xuất gia với Bhaddiya cùng các người khác và được Thế Tôn tế độ cho. Sau khi nghe bài thuyết pháp của Puṇṇa Mantāniputta, ngài chứng được Sơ quả.
Trong hai mươi năm đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng, khi thì Nāgasamāla, Nāgita, Upavāṇa, Sunakkhatta, khi thì Sa-di Cunda, Sāgata, Meghiya. Thế Tôn không có lựa chọn ai làm thị giả đặc biệt. Sau khi Thế Tôn đã năm mươi sáu tuổi, gợi ý muốn có một thị giả thường trực, có Tỷ-kheo đề nghị Ānanda; và Ānanda chỉ nhận lời nếu Thế Tôn chịu từ chối bốn việc và chấp nhận bốn việc. Từ chối không cho Ānanda: Y, đồ ăn, một phòng riêng và mời ăn; vì nếu không từ chối thời Ānanda bị hiểu lầm là hầu hạ Thế Tôn để được y, đồ ăn khất thực, phòng xá và mời ăn. Chấp nhận cho Ānanda bốn việc: Nếu Ānanda được mời ăn, Thế Tôn bằng lòng đi dự; Thế Tôn bằng lòng gặp những người từ xa đi đến và do Ānanda giới thiệu; Thế Tôn chấp nhận cho Ānanda yết kiến nếu Ānanda gặp phân vân khó xử; Thế Tôn sẽ giảng lại những giáo lý Ngài dạy khi Ānanda vắng mặt. Nếu Thế Tôn không chấp nhận bốn điều này, thời sự hầu hạ của Ānanda không đem lại thiện quả gì. Thế Tôn chấp nhận điều Ānanda yêu cầu.
Từ hôm ấy, Ānanda hầu hạ Thế Tôn, đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn, quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày, Ānanda ở một bên đức Phật, nhắc nhở những điều cần làm; ban đêm cầm đèn và gậy đi xung quanh phòng đức Phật, sẵn sàng đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi. Thế Tôn ở tại Jetavana, xác chứng Ānanda là vị Tỷ-kheo đệ nhất về năm phương diện: Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức mạnh đi bộ, lòng kiên trì và sự hầu hạ chu đáo. Như vậy, Ānanda, sau khi Thế Tôn nhập diệt vẫn chưa chứng quả A-la-hán; và đêm trước khi kỳ kết tập thứ nhất được tổ chức, ngài phát tâm tinh cần, tinh tấn thiền quán suốt đêm trong mái hiên, nhưng vẫn chưa có hiệu quả. Rồi ngài vào phòng ngồi trên giường, muốn nằm xuống và khi đầu chưa đụng chiếc gối, chân chưa rời khỏi đất, trong khoảng thời gian ấy, ngài chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài bước vào phòng kết tập.
Các câu kệ của ngài được góp thâu lại và để vào trong tập Trưởng lão Tăng kệ, khi Khuddaka Nikāya (Kinh Tiểu bộ) được tụng đọc.
Những bài kệ đầu được nói lên, khi ngài khuyên các Tỷ-kheo thường thân cận với kẻ theo Devadatta:

1017.
Hai lưỡi và phẫn nộ,
Xan tham, thích phá hoại,
Bậc trí không giao du,
Kẻ ác, bạn kẻ xấu.26

1018.
Với bậc tín dễ thương,
Với bậc trí nghe nhiều,
Bậc hiền trí giao du,
Kẻ thiện, bạn chân nhân.27

Các bài kệ sau được nói lên cho nữ cư sĩ Uttarā, vì cô đẹp nên thiên về dục vọng và được nói lên để cô thấy sự mỏng manh của thân cô. Có người nói các bài kệ này nói lên cho những ai đắm say Ambapālī:

1019.
Hãy xem bóng trang sức,
Nhóm vết thương tích tụ,
Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,
Nhưng không gì trường cửu.

1020.
Hãy nhìn sắc trang sức,
Với châu báu vòng tai,
Bộ xương, da bao phủ,
Sáng chói nhờ y phục.

1021-23.28
Chân sơn với son, sáp,
Mặt thoa với phấn bột,
Chỉ mê hoặc kẻ ngu,
Không mê bậc Cầu giác...

Hai câu kệ tiếp được vị Trưởng lão nói lên khi chứng quả A-la-hán đêm ấy trên giường của mình:

1024.

Nghe nhiều, diễn thuyết giỏi,
Thị giả bậc Giác Giả,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Ràng buộc được thoát ly,
Bậc họ Gotama,
Ðặt lưng nằm xuống nghỉ.

1025.

Các lậu hoặc đoạn tận,
Ràng buộc được thoát ly,
Mọi chấp trước vượt qua,
Khéo đạt được thanh lương,
Gánh vác thân cuối cùng,
Ðến bờ kia sanh tử.29

1026.

Pháp an trú trong ấy,
Phật, Bà Con Mặt Trời,
Trên đường đến Niết-bàn,
Gotama an trú.

Một hôm, Moggallāna người chăn bò, hỏi ngài lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão trả lời:

1027.

Ta nhận từ đức Phật,
Tám mươi hai ngàn pháp,
Còn nhận từ Tỷ-kheo,
Thêm hai ngàn pháp nữa,
Là pháp ta chuyển vận.

Một hôm, vị Trưởng lão nói cho một người sống bê tha phóng đãng về sự nguy hiểm của một đời sống không có văn hóa, giáo dục:

1028.

Người ít nghe, ít học,
Lớn già như con bò,
Những thịt nó lớn lên,
Trí tuệ nó không lớn.30

Những bài kệ tiếp nói cho vị Tỷ-kheo khinh khi những người ít học, thua mình:

1029.

Người học nhiều khinh miệt,
Kẻ học ít về học,
Như người mù mang đèn,
Ta có ý là vậy.

1030.

Hãy kính người nghe nhiều,
Chớ hại điều sở học,
Ðấy cội gốc Phạm hạnh,
Do vậy hãy trì pháp.

1031.

Biết câu trước câu sau,
Biết nghĩa, giỏi từ cú,
Nắm giữ điều khéo nắm,
Suy tìm trên nghĩa lý.

1032.

Chính nhờ đức kham nhẫn,
Sở nguyện được tác thành,
Sau khi đã tinh tấn,
Vị ấy lại cân nhắc,
Ðúng thời ra nỗ lực,
Nội tâm khéo định tĩnh.

1033.

Nghe nhiều, thọ trì pháp,
Có tuệ, đệ tử Phật,
Chờ đợi thức tri pháp,
Nên thân cận vị ấy.

1034.

Nghe nhiều, thọ trì pháp,
Hộ tạng Ðại Ẩn Sĩ,
Cặp mắt toàn thế giới,
Hãy lễ vị nghe nhiều.

1035.

Ưa pháp, vui thích pháp,
Luôn suy tư Chánh pháp,
Tỷ-kheo nhớ niệm pháp,
Diệu pháp không tổn giảm.31

Một hôm, ngài đốc thúc vị Tỷ-kheo dao động, biếng nhác như sau:

1036.

Thân ích kỷ nặng chăng,
Không có ưa hoạt động,
Thời gian mòn mỏi qua,
Không thể đứng dậy sao?
Tham đắm theo thân lạc,
Từ đâu Sa-môn lạc?

Những câu kệ sau, Trưởng lão Ānanda đọc lên khi nghe tin Sāriputta mạng chung:

1037.

Mọi phương đều mờ mịt,
Pháp không khởi nơi ta,
Người bạn tốt đã đi,
Tối tăm dường lan khắp.

1038.

Người bạn đã đi qua,
Ðạo sư đã đi qua,
Bạn như vậy không còn,
Như quán thân hành niệm.

1039.

Các vị xưa đã qua,
Vị mới, ta không hạp,
Nay một mình ta thiền,
Như chim khi mưa đến.

Câu kệ tiếp là của bậc Ðạo sư. Câu tiếp là của Ānanda hoan hỷ làm theo lời vị Ðạo sư:

1040.

Từ các địa phương khác,
Nhiều người yết kiến Ta,
Chớ ngăn họ nghe pháp,
Nay thời họ gặp Ta.

1041.

Từ các địa phương khác,
Bổn sư cho họ dịp,
Ðể được yết kiến Ngài,
Bậc Có Mắt không có,
Từ chối ngăn chặn ai.

Năm câu kệ tiếp nêu rõ ngài là bậc Thị giả đệ nhất:

1042.

Trải hai mươi lăm năm,
Ta chỉ là Hữu học,
Dục tưởng không khởi lên,
Hãy xem pháp, pháp tánh.

1043.

Trải hai mươi lăm năm,
Ta chỉ là Hữu học,
Sân tưởng không khởi lên,
Hãy xem pháp, pháp tánh.

1044.

Trải hai mươi lăm năm,
Ta hầu hạ Thế Tôn,
Với thân nghiệp từ hòa,
Như bóng không rời hình.

1045.

Trải hai mươi lăm năm,
Ta hầu hạ Thế Tôn,
Với khẩu nghiệp từ hòa,
Như bóng không rời hình.

1046.

Trải hai mươi lăm năm,
Ta hầu hạ Thế Tôn,
Với ý nghiệp từ hòa,
Như bóng không rời hình.

1047.

Khi đức Phật kinh hành,
Ta đi theo sau lưng,
Khi pháp được thuyết giảng,
Trí khởi lên nơi ta.

1048.

Ta vẫn còn là người,
Có việc cần phải làm,
Ta chỉ là Hữu học,
Tâm ý chưa chứng đạt,
Ðạo sư nhập Niết-bàn,
Ai sẽ từ mẫn ta!

1049.

Như vậy thật khủng khiếp,
Như vậy thật kinh hoàng,
Khi bậc Toàn Tuyệt Hảo,
Đại Giác nhập Niết-bàn!32

Ba câu kệ tiếp, do các vị dự kỳ kết tập thêm vào để tán thán Trưởng lão Ānanda:

1050.

Nghe nhiều, thọ trì pháp,
Hộ tạng Ðại Ẩn Sĩ,
Cặp mắt toàn thế giới,
Ānanda nhập Niết-bàn.

1051.

Nghe nhiều, thọ trì pháp,
Hộ tạng Ðại Ẩn Sĩ,
Cặp mắt toàn thế giới,
Ðoạn ám chỗ tối tăm.

1052.

Ngài là bậc Ẩn sĩ,
Với hành vi tuyệt hảo,
Với chánh niệm tuyệt hảo,
Với kiên trì tuyệt hảo,
Thọ trì Chơn diệu pháp,
Là Trưởng lão Ānanda,
Là kho tàng sống động,
Ðầy châu báu ngọc ngà.

Câu kệ này được Ānanda nói lên khi nằm trên giường trong giờ phút cuối cùng:

1053.

Ta hầu hạ Bổn sư,
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.