Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ/ CHƯƠNG XVII. BA MƯƠI KỆ (TIṂSANIPĀTA)

§259. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SĀRIPUTTA

 (Sāriputtattheragāthā) (Thag. 89; ThagA. III. 91)

Cuộc đời của ngài và cuộc đời của Moggallāna gắn liền với nhau. Trong thời đức Phật hiện tại, Sāriputta sanh tại thành Upatissa, không xa Vương Xá (Rājagaha) bao nhiêu, mẹ là Rūpasārī; còn Moggallāna sanh ở thành Kolita, không xa thành Vương Xá (Rājagaha) bao nhiêu, mẹ là Moggalī. Vì cả hai là con của các vị gia trưởng nên được đặt tên là Upatissa và Kolita. Cả hai đứa  trẻ được nuôi dưỡng trong giàu sang và thiện xảo mọi khả năng. Trong một hội chợ lớn ở Vương Xá (Rājagaha), vì tâm tư thuần thục, cả hai đều thấy tất cả quần chúng một trăm năm sau sẽ bị thần chết mang đi nên cả hai lo âu đi tìm con đường giải thoát. Cả hai xuất gia dưới sự dẫn đạo của Sañjaya, hẹn nhau ai chứng quả bất tử trước sẽ nói cho người kia biết.

Dưới sự dẫn đạo của Sañjaya, cả hai không tìm được đạo giải thoát; và sau khi tìm hỏi các Sa-môn, Bà-la-môn gặp được Assaji; và nhờ Assaji, gặp được Thế Tôn, cả hai đều xin xuất gia và được đức Phật độ cho làm Tỷ-kheo với câu: “Thiện lai, Tỷ-kheo.”

Moggallāna chứng được quả Dự lưu nhờ nghe Assaji tóm tắt tinh yếu của giáo pháp bằng một bài kệ. Bảy ngày sau khi xuất gia, tại làng Kallavāla ở Magadha, sau khi nhiếp phục được hôn trầm thụy miên, và nhờ Thế Tôn khích lệ, dạy về tu các giới, Moggallāna chứng được quả A-la-hán.

Còn Sāriputta, nửa tháng sau khi xuất gia, khi ở cùng đức Bổn sư tại hang Sūkarakhata ở Vương Xá (Rājagaha) cũng được chứng quả A-la-hán. Về sau tại Jetavana, Thế Tôn xác chứng Sāriputta là đệ tử Đệ nhất về trí tuệ và thiền quán; và Sāriputta sau khi được tôn làm Tướng quân Chánh pháp, một hôm nói lên chánh trí của mình trước các đệ tử:

981.  Ai tùy theo năng lực,
Không phóng dật, hành trì,
Thích hướng nội, khéo định,
Với sở hành như vậy,
Có giới, tịnh, chánh niệm,
Sở hành đúng tư duy,
Ðơn độc, biết tri túc,
Vị ấy gọi Tỷ-kheo.
982.  Ăn đồ ướt hay khô,
Bụng trống, ăn tiết độ,
Không ăn quá thỏa mãn,
Tỷ-kheo trú chánh niệm.4
983.  Ăn bốn, năm miếng xong,
Thật đủ trú thoải mái,
Rồi hãy uống nước uống,
Với Tỷ-kheo tinh cần.
984.  Nhận lấy đồ hợp pháp,
Thật đủ trú thoải mái,
Y áo đáp nhu cầu,
Với Tỷ-kheo tinh cần.
985.  Khi ngồi thế kiết-già,
Thật đủ trú thoải mái,
Ðầu gối khỏi mưa ướt,5
Với Tỷ-kheo tinh cần.6
986.  Ai xem lạc là khổ,
Ðứng chặng giữa cả hai,
Ai xem khổ như tên,
Do đâu đời nắm được?7
987.  Không cho ta ác dục,
Ít nghe, không tín kính,
Biếng nhác, tinh cần kém,
Do đâu đời nắm được?8
988.  Nghe nhiều, có hiền trí,
Chuyên chú, an chỉ tâm,
Khéo định tĩnh trong giới,
Hãy đứng lên trên đầu.
989.  Ai chuyên tâm hý luận,
Rơi khỏi, trật Niết-bàn,
Như thú ưa hý luận,
Vô thượng, thoát khổ ách.
990.  Ai từ bỏ hý luận,
Ði đến được Niết-bàn,
Thích đạo phi hý luận,
Vô thượng, thoát khổ ách.

Rồi vị Trưởng lão, một hôm thấy được chỗ ở của người em Revata9 đang ở, một khu rừng không nước đầy gai góc, ngài tán thán người em và nói:

991.  Tại làng hay trong rừng,
Chỗ nào La-hán trú,
Thung lũng hay đồi cao,
Ðất ấy thật khả ái.10
992.  Khả ái thay núi rừng!
Vị ly tham sẽ thích,
Chỗ người phàm không ưa,
Vì không tìm dục lạc.11

Rồi vị Trưởng lão với lòng từ mẫn đối với Rādha, một Bà-la-môn bất hạnh, giúp ông xuất gia tu hành. Về sau, khi đang du hành, hài lòng với cử chỉ khiêm tốn của Rādha, ngài khích lệ:

993.  Như người chỉ của chôn,
Nói điều người trí trách,
Thân cận người như vậy,
Cũng vậy người thấy lỗi,
Hãy gần người trí vậy.
Chỉ tốt hơn không xấu.12

Một hôm, bậc Ðạo sư không đi đến để giải tán nhóm Tăng chúng của Assaji Punabbasu được tổ chức ở đồi Kitā, Sāriputta được cử đi cùng với Moggallāna và các đệ tử của mình. Khi lời khuyên của Sāriputta không được nghe theo, ngài nói như sau:

994.  Cần phải khuyên, phải dạy,
Làm vậy người thiện thương,
Phải ngăn chặn bất thiện,
Người bất thiện không ưa.13

Khi các Tỷ-kheo nói rằng chính du sĩ Dīghanakha, được Thế Tôn giảng dạy, được sửa soạn bởi hành động quá khứ, có thể làm nhiệm vụ ấy, Sāriputta can thiệp nói rằng không phải:

995.  Thế Tôn, bậc Có Mắt,
Khi pháp được thuyết giảng,
Thuyết pháp cho người khác,
Ta lắng tai nhiệt tình.
996.  Ta nghe không uổng phí,
Không cần biết đời trước,
Giải thoát không lậu hoặc,
Không cần được thiên nhãn.14
997.  Ta không có phát nguyện,
Biết chúng sanh sống chết,
Chứng được Tha tâm thông,
Hay nhĩ giới thanh tịnh.

Ba câu kệ tiếp được nói lên về ngài, khi Sāriputta trú ở tinh xá Hang Bồ Câu, không có bị thương khi bị quỷ dạ-xoa đánh:

998.  Ngồi dưới một gốc cây,
Trưởng lão Tuệ đệ nhất,
Ðầu trọc, đắp đại y,
Upatissa tu thiền.
999.  Ðầy đủ thiền Vô tầm,15
Với im lặng bậc Thánh,
Ðệ tử bậc Chánh Giác
Ngay lúc ấy đạt được.16
1000.  Giống như ngọn núi đá,
Cũng vậy vị Tỷ-kheo,
Vị ấy như ngọn núi,
Không động, khéo vững trú,
Ðã đoạn diệt si ám,
Không có bị dao động.17

Một hôm, bậc Trưởng lão không chú tâm, để tấm y rơi xuống. Một Sa-di nói: “Thưa Tôn giả, y cần phải đắp xung quanh thân mình.” Tôn giả tán thán lời nói của người Sa-di và đắp lại tấm y trên thân. Và nói lên điều lỗi của mình, ngài nói bài kệ:

1001.  Người không có uế nhiễm,
Ác nhẹ như đầu lông,
Luôn tầm cầu thanh tịnh,
Xem nặng như mây trời.

Rồi ngài nêu rõ sự xả ly của ngài đối với vấn đề sống chết:

1002.  Ta không hoan hỷ chết,
Ta sẽ bỏ thân này,
Ta không hoan hỷ sống,
Tỉnh giác và chánh niệm.18
1003.  Ta không hoan hỷ chết,
Ta sẽ bỏ thân này,
Ta không hoan hỷ sống,
Như thợ làm việc xong.

Rồi khi thuyết pháp, ngài nói lên những bài kệ:

1004.  Cả hai, chết không chết,
Hãy dấn thân tiến bước,
Dầu một khắc sát-na,
Sau đời hay trước đời,19
Chớ để hư uổng phí,
Chớ để uổng phí qua.20
1005.  Như ngôi thành biên địa,
Như vậy hộ tự ngã,
Sát-na qua sầu muộn,
Ðược bảo vệ trong ngoài,
Chớ để phí sát-na,
Chịu khổ trong địa ngục.

Rồi một hôm, thấy Tôn giả Mahākoṭṭhita, ngài nói lên ba câu kệ tán thán khả năng tốt đẹp của Mahākoṭṭhita:

1006.  Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,
Quét sạch các ác pháp,
Ðọc chú, không cống cao,
Như gió quét lá cây.
1007.  Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,
Gạt ngoài các ác pháp,
Ðạt tịch tịnh an lặng,
Bậc trì giới trọn lành,
Ðọc chú, không cống cao,
Như gió quét lá cây.
Ý trong sáng không nhiễm,
Có thể dứt đau khổ.

Câu kệ tiếp nói về các Tỷ-kheo xứ Vajjī tin tưởng ở Devadatta và chấp nhận giáo lý của Devadatta:

1008.  Có người không ai tin,
Những ai trước là tốt,
Hoặc trước là người xấu,
Tại gia hay xuất gia,
Về sau trở thành xấu,
Sau trở thành người tốt.
1009.  Hạng Tỷ-kheo tham dục,
Trạo cử và nghi ngờ,
Sống hôn trầm thụy miên,
Tâm đủ năm phiền não.21
1010.  Với ai, đối cả hai,
Thiền định không dao động,
Ðược trọng, không được trọng,
An trú không phóng dật.
1011.  Thiền tư luôn kiên trì,
Ưa thích chấp thủ diệt,
Tuệ quán kiến tế nhị,
Vị ấy gọi chân nhân.22

Ðể phân biệt sự sai khác, lấy Bổn sư và mình làm thí dụ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

1012.  Biển lớn và đất lớn,
Không ví dụ sánh được,
Núi và các phương trời,
Phật, giải thoát thù thắng.
1013.  Trưởng lão chuyển pháp luân,
Như đất, nước và lửa,
Bậc Đại trí thiền định,
Không tham, không ghét bỏ.
1014.  Ðạt được tuệ tối thắng,
Không chậm, tỏ chậm chạp,23
Ðại giác, đại Mâu-ni,
Thường sống thật thanh lương.

Ðể nêu rõ bổn phận của mình đã làm xong, ngài nói:

1015.  Ta hầu hạ Bổn sư,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Lời Phật dạy làm xong,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.24

Và khi sắp nhập Niết-bàn, ngài giảng dạy các Tỷ-kheo đang tụ họp xung quanh như sau:

1016.  Tinh cần, chớ phóng dật,
Ta sẽ nhập Niết-bàn,
Ðây lời giáo huấn Ta!
Ta thoát mọi sanh y.25

Tham khảo:

4 Kệ 982-83, xem Miln. 406, Ajagaraṅgapañho (Câu hỏi về tính chất của loài trăn).
5 Chú giải giải thích, ai ngồi kiết-già thời mưa không ướt chân.
6 Xem Miln. 366, Gadrabhaṅgapañho (Câu hỏi về tính chất của loài lừa).
7 Xem S. IV. 207, Daṭṭhabbasutta (Kinh Cần phải quán kiến); It. 47, Dutiyavedanāsutta (Kinh thứ hai về các thọ).
8 Xem Miln. 396, Migaṅgapañho (Câu hỏi về tính chất của loài nai).
9 Xem Thag. v. 42, Khadiravaniyattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Khadiravaniya); Thag. v. 244, Khadiravaniyarevatattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Khadiravaniya Revata).
10 Tham chiếu: S. I. 499, Rāmaṇeyyakasutta (Kinh Khả ái, khả lạc); Dh. v. 98; J. III. 169; Pháp cú kinh “La-hán phẩm” 法句經羅漢品 (T.04. 0210.15. 0564a28); Pháp cú thí dụ kinh “La-hán phẩm” 法句譬喻經羅漢品 (T.04. 0211.15. 0588b10); Xuất diệu kinh “Song yếu phẩm” 出曜經雙要品 (T.04. 0212.30. 0747c06).
11 Tham chiếu: Dh. v. 98; Pháp cú kinh “La-hán phẩm” 法句經羅漢品 (T.04. 0210.15. 0564a28); Pháp cú thí dụ kinh “La-hán phẩm” 法句譬喻經羅漢品 (T.04. 0211.15. 0588b10); Xuất diệu kinh “Song yếu phẩm” 出曜經雙要品 (T.04. 0212.30. 0747c06); Pháp tập yếu tụng kinh “Tương ưng phẩm” 法集要頌經相應品 (T.04. 0213.29. 0792c29).
12 Tham chiếu: Dh. v. 76; Pháp cú kinh “Minh triết phẩm” 法句經明哲品 (T.04. 0210.14. 0563c24); Xuất diệu kinh “Ác hành phẩm” 出曜經惡行品 (T.04. 0212.29. 0741b24); Pháp tập yếu tụng kinh “Tội chướng phẩm” 法集要頌經罪障品 (T.04. 0213.28. 0792a17).
13 Tham chiếu: Dh. v. 77; Xuất diệu kinh “Niệm phẩm” 出曜經念品 (T.04. 0212.6. 0649a06); Pháp tập yếu tụng kinh “Ái lạc phẩm” 法集要頌經愛樂品 (T.04. 0213.5. 0779c23).
14 Xem Kv. 256, Yathākammūpagatañāṇakathā (Vấn đề Thiên nhãn minh và hạnh nghiệp chúng sanh).
15 Chỉ cho Thiền thứ tư.
16 Tham chiếu: Thag. v. 650; Ud. 27, Sāriputtasutta (Kinh Sāriputta); Xuất diệu kinh “Sa-môn phẩm” 出曜經沙門品 (T.04. 0212.33. 0764c15); Pháp tập yếu tụng kinh “Bật-sô phẩm” 法集要頌經苾芻品 (T.04. 0213.32. 0796b16).
17 Xem Thag. v. 651; J. III. 308; S. I. 440, Gandhatthenasutta (Kinh Kẻ trộm hương).
18 Xem Thag. v. 196, 606, 655.
19 Đứng giữa đời sống, nhìn về phía trước khi còn trẻ, nhìn về phía sau khi sẽ già.
20 Tham chiếu: Thag. v. 645; Thīg. v. 5; A. IV. 225, Akkhaṇasutta (Kinh Không phải thời); Dh. v. 315; Sn. 57, Uṭṭhānasutta (Kinh Đứng dậy); Pháp cú kinh “Địa ngục phẩm” 法句經地獄品 (T.04. 0210.30. 0570a05); Xuất diệu kinh “Niệm phẩm” 出曜經念品 (T.04. 0212.6. 0649a06); Pháp tập yếu tụng kinh “Ái lạc phẩm” 法集要頌經愛樂品 (T.04. 0213.5. 0779c23).
21 Xem Thag. v. 74; A. V. 16, Pañcaṅgasutta (Kinh Năm chi phần).
22 Xem S. II. 231, Sagāthakasutta (Kinh Có kệ); It. 73, Sakkārasutta (Kinh Cung kính).
23 Vì Ngài sống giản dị nên có vẻ chậm chạp.
24 Xem Thag. v. 604, 656, 687, 792, 891, 918, 1053, 1091, 1194.
25 Xem Thag. v. 658.

 

 

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.