Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ/ CHƯƠNG XII MƯỜI HAI KỆ (DVĀDASAKANIPĀTA)

 

§242. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SUNĪTA (Sunītattheragāthā)2 (Thag. 63; ThagA. II. 262)

 

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ra trong một gia đình đổ rác hoa. Ngài sống bằng nghề quét đường, làm không đủ tiền để trang trải đời sống đói khổ. Trong canh một, Thế Tôn khởi lòng từ mẫn quán chiếu khắp thế giới và thấy trong tâm của Sunīta có đủ điều kiện để chứng quả A-la-hán, chói sáng như một ngọn đèn trong cái ghè.

Khi trời vừa mới sáng, Thế Tôn đắp y, cầm y bát, cùng với một số Tỷ-kheo vào thành Vương Xá để khất thực và đi đến con đường Sunīta đang quét dọn. Sunīta đang quét rác gom lại thành từng đống, đổ vào thúng rồi gánh mang đi. Khi thấy bậc Ðạo sư và chư Tăng đi đến, ngài cảm giác hoan hỷ xúc động. Không tìm được chỗ để ẩn nấp nên ngài đứng sát như mắc dính vào vách tường và chắp tay vái chào. Khi đến gần, đức Phật với lời từ ái hỏi ngài: “Này Sunīta, sao ông lại cam phận với đời sống khổ sở như vậy? Ông có muốn xuất gia không?” Ngài hoan hỷ vô ngần, thưa: “Nếu ngay cả một người thấp kém như con cũng được đức Thế Tôn thu nhận, sao con lại không muốn được xuất gia?” Rồi đức Phật độ cho ngài xuất gia với câu: “Hãy đến, này Tỷ-kheo!” Bậc Ðạo sư đưa ngài về tinh xá, dạy cho ngài một phương pháp thiền quán. Ngài thành tựu được tám thiền chứng và năm thắng trí. Phát triển thiền quán, ngài chứng được thắng trí thứ sáu. Rồi Sakka và các Phạm thiên đến đảnh lễ ngài, như được ghi trong bài kệ như sau:

Rồi bảy trăm chư thiên,
Huy hoàng đi đến gần,
Tùy tùng đấng Phạm thiên,
Và Thiên chủ Ðế-thích,
Họ sung sướng đảnh lễ,
Trưởng lão Sunīta,
Bậc Chiến thắng cao sang,
Vượt qua già và chết.

Thấy ngài được chư thiên đoanh vây, Thế Tôn mỉm cười, khen và thuyết giảng cho ngài với câu kệ: “Nhờ khổ hạnh, Phạm hạnh…” (kệ số 631). Lúc bấy 

giờ, nhiều Tỷ-kheo muốn ngài rống tiếng rống sư tử, đã hỏi ngài: “Sanh ra từ gia đình nào? Vì sao xuất gia? Làm thế nào để chứng quả?” Ngài trả lời cho họ với những bài kệ như sau:
620.
Ta sanh nhà hạ tiện,
Nghèo khổ không đủ ăn,
Nghề ta rất hèn hạ,
Ta kẻ quét hoa rơi.
621.
Ta bị người nhàm chán,
Miệt thị và khinh bỉ,
Hạ mình xuống thật thấp,
Ta kính lễ quần chúng.
622.
Rồi ta thấy đức Phật,
Thượng thủ chúng Tỷ-kheo,
Bậc Ðại Hùng vào thành,
Magadha tối thượng.
623.
Ta quăng bỏ đòn gánh,
Ðến gần để đảnh lễ,
Với lòng thương xót ta,
Bậc Thượng Nhân đứng lại.
624.
Lễ chân Ðạo sư xong,
Ta đứng liền một bên,
Ta xin được xuất gia,
Bậc Tối Thượng Mọi Loài.
625.
Bậc Ðạo sư từ bi,
Từ mẫn khắp thế giới,
Nói: “Hãy đến, Tỷ-kheo!”
Ðại giới, ta thọ vậy.
626.
Rồi ta sống trong rừng,
Một mình không biếng nhác,
Ta theo lời Ðạo sư,
Như bậc Chiến Thắng dạy
627.
Trong đêm canh chặng giữa,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Trong đêm canh cuối cùng,
Ta phá khối si ám.
628.
Khi đêm vừa mở rộng,
Rạng đông trời ló dạng,
Ðế-thích, Phạm thiên đến,
Chắp tay đảnh lễ ta:
629.
“Ðảnh lễ bậc Thượng sanh!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Ngài đoạn tận lậu hoặc,
Ngài xứng đáng cúng dường.”
630.
Bậc Ðạo sư thấy ta,
Ðứng đầu chúng chư thiên,
Nở ra một nụ cười,
Nói với ta nghĩa này:
631.
“Nhờ khổ hạnh, Phạm hạnh,
Nhờ tự chế, điều phục,
Nhờ vậy là Phạm chí,
Ðây Phạm chí tối thượng."
 
Chú thích
2 Xem Thag. v. 1146; M. II. 196, Vāseṭṭhasutta (Kinh Vāseṭṭha), số 98; Sn. 115, Vāseṭṭhasutta.
 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.