Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ/ CHƯƠNG X. MƯỜI KỆ (DASAKANIPĀTA)

§235. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MAHĀKAPPINA (Mahākappinattheragāthā)4 (Thag. 58; ThagA. II. 231)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở biên địa, tại thành phố tên Kukkuṭa, trong hoàng gia và được đặt tên là Kappina. Khi phụ vương mất, ngài thừa tự ngôi vua với tên là Mahākappina. Ðể tăng trưởng sự hiểu biết, ngài sai sứ giả mỗi buổi sáng đi ra bốn cửa thành giữ lại các vị học giả và tin cho ngài biết. Thời ấy, bậc Ðạo sư đã ra đời và đang ở Sāvatthi. Các thương gia của thành phố Sāvatthi đem đồ đến Kukkuṭa bán, đem quà dâng vua. Vua hỏi tình hình ở Sāvatthi và dân chúng theo tôn giáo nào. Các thương gia thưa không trả lời cho vua được vì chưa được súc miệng. Sau khi vua truyền đem nước trong chiếc bình vàng đến, súc miệng xong, các thương gia chắp tay thưa: “Ở đất nước chúng tôi, Phật báu đã ra đời.” Khi nghe nói đến danh hiệu Phật, vua cảm giác niềm hân hoan lan khắp toàn thân, bảo thương gia nói lại ba lần và thưởng cho họ một trăm ngàn đồng tiền vàng. Các thương gia cũng nói đến Pháp báu và Tăng báu và vua tặng thưởng gấp ba lần. Rồi vua từ bỏ thế tục, đi xuất gia, các vị đại thần cũng theo gương vua. Lúc bấy giờ, tất cả vua tôi cùng đi tìm đức Bổn sư và đi đến sông Hằng. Tại đây, họ nói lên quyết tâm với sức mạnh chân lý: “Nếu có một bậc Đạo sư, một vị Phật Tối thượng, xin đừng để những vó ngựa này thấm nước!” Rồi họ vượt qua con sông ấy và cứ thế vượt qua một con sông khác nữa, đến con sông thứ ba, sông Candabhāgā.

Hôm ấy, bậc Ðạo sư dậy sớm khi rạng đông, với lòng đại từ bi, Ngài dùng Phật nhãn quán chiếu thế giới và thấy Mahākappina đã từ bỏ vương quốc, đang đi đến với một số tùy tùng lớn để xuất gia. Việc trước tiên trong ngày, bậc Ðạo sư đi vào Sāvatthi khất thực với các Tỷ-kheo rồi Ngài bay ngang qua hư không đến bờ sông Candabhāgā, ngồi kiết-già đối diện với bến nước và phóng hào quang. Mahākappina và các tùy tùng thấy được các hào quang liền đến đảnh lễ đức Phật. Ngài thuyết pháp cho họ, tất cả đều chứng quả A-la-hán và xin trở thành Sa-môn. Ðức Phật nói: “Hãy đến, này các Tỷ-kheo!” và như vậy là lễ thọ giới của họ. Rồi Thế Tôn đem tất cả họ về Jetavana ngang qua hư không.

Một hôm, Thế Tôn hỏi: “Mahākappina có thuyết pháp cho đại chúng không?” và khi được trả lời: “Không”, Thế Tôn cho gọi Mahākappina và khuyên Mahākappina thuyết pháp cho đại chúng. Mahākappina vâng lời dạy của Thế Tôn và trong buổi thuyết pháp đầu tiên độ cho hơn một ngàn vị Sa-môn chứng quả A-la-hán. Rồi đức Phật ấn chứng Mahākappina là vị Thuyết pháp đệ nhất trong chúng Tăng.

Một hôm, ngài giảng cho các Tỷ-kheo-ni như sau:

547.

Ai thấy sớm sự việc,
Và biết được cả hai,
Thù hay bạn, người ấy,
Dầu quan sát kỹ càng.

Trước khi sự việc đến,
Có lợi hay có hại,
Không thấy được sơ hở,
 

548.

Với ai khéo tu tập,
Tiếp tục hành viên mãn,
Sẽ chói sáng đời này,

Niệm thở vào thở ra,
Như lời Phật thuyết giảng,
Như trăng thoát vùng mây.

549.

Tâm ta thật trắng bạch,
Thấu triệt, chế ngự vững,

Vô lượng, khéo tu tập,
Chói sáng khắp mọi phương.

550.

Bậc có tuệ vẫn sống,
Không có được trí tuệ,

Dầu tài sản kiệt tận,
Có tiền như không sống.

551.

Tuệ phê phán điều nghe,
Ở đời, người có tuệ,

Tuệ tăng trưởng danh xưng,
Ðược vui trong đau khổ.

552.

Pháp này thuộc hiện tại,
Ðâu có sanh thì chết,

Không vi diệu hy hữu,
Ðây không gì hy hữu.

553.

Sanh đã không gián đoạn,
Sanh sanh, chết tại đấy,

Sống có chết thường hằng,
Pháp hữu tình là vậy.

554.

Ðiều lợi cho kẻ sống,
Than khóc cho kẻ chết,
Không được hàng Sa-môn,

Không lợi cho kẻ chết,
Không danh, không thanh tịnh,
Bà-la-môn tán thán.

555.

Than khóc hại thân, mắt,
Nếu tâm tư hoan hỷ,
Dầu hạnh phúc đi tìm,

Dung sắc, lực và trí,
Các phương cũng hân hoan,
Không có gì an lạc.

556.

Do vậy các cư sĩ,
Chỉ những người có trí,
Với sức mạnh trí tuệ,
Như chiếc thuyền vượt qua,

Muốn nhận trong gia đình,
Và những người nghe nhiều,
Họ làm tròn nhiệm vụ,
Con sông nước tràn đầy.

Tham khảo:

4 Tham chiếu: Thag. v. 866; M. II. 97, Aṅgulimālasutta (Kinh Aṅgulimāla), số 86; Dh. v. 172, 173; Phật thuyết Nguyệt dụ kinh 佛說月喻經 (T.02. 0121. 0544b12); Pháp cú kinh “Duy niệm phẩm” 法句經惟念品 (T.04. 0210.6. 0561a16); Pháp cú kinh “Phóng dật phẩm” 法句經放逸品 (T.04. 0210.10. 0562b19); Pháp cú thí dụ kinh “Phóng dật phẩm” 法句譬喻經放逸品 (T.04. 0211.10. 0584a05); Xuất diệu kinh “Duy niệm phẩm” 出曜經惟念品 (T.04. 0212.16. 0698b06); Xuất diệu kinh “Tạp phẩm”出曜經雜品 (T.04. 0212.17. 0702b08); Pháp tập yếu tụng kinh “Ức niệm phẩm” 法集要頌經憶念品 (T.04. 0213.15. 0784b14); Pháp tập yếu tụng kinh “Thanh tịnh phẩm” 法集要頌經清淨品 (T.04. 0213.16. 0785a15).

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.