Tam tạng Thánh điển PGVN 05 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ/ CHƯƠNG IX. CHÍN KỆ (NAVAKANIPĀTA)
§232. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO BHŪTA (Bhūtattheragāthā) (Thag. 54; ThagA. II. 217)
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh trong một gia đình quý tộc ngoại thành Sāketa. Ngài là con út và là người con độc nhất được sống sót, còn các người con khác đều bị một dạ-xoa thù nghịch ăn thịt. Ngài được canh giữ cẩn thận và cũng lúc ấy, dạ-xoa lên hầu Vessavaṇa nên không về nữa. Đến tuổi đặt tên, ngài được đặt tên là Bhūta, vì do nguyện cầu “mong rằng các hàng phi nhân có lòng từ hộ trì cho đứa trẻ” mà sanh được ngài. Nhờ công đức của mình, ngài lớn lên không bị tai nạn gì và được nuôi dưỡng trong ba lâu đài như Yasa. Khi bậc Ðạo sư đến Sāketa, ngài cùng với các cư sĩ khác đến tinh xá nghe thuyết pháp. Sau khi xuất gia, ngài sống trong một hang động trên bờ sông Ajakaraṇī và tại đấy chứng quả A-la-hán. Sau đó, vì lòng từ mẫn, ngài về thăm bà con và trú ở trong rừng Añjana. Khi bà con yêu cầu ngài ở lại vì lợi ích chung cho bà con và cho ngài, ngài đã nói rằng mình ưa thích đời sống xuất gia và nói lên những bài kệ như sau trước khi từ biệt bà con:
518. |
Khi bậc trí thấy được, |
Già chết là đau khổ, |
519. |
Khi đoạn tận được ái, |
Ái đem khổ, độc hại, |
520. |
Khi với tuệ, thấy được, |
Con đường lành vô thượng, |
521. |
Khi tu tập con đường, |
Không sầu, không cấu uế, |
522. |
Khi trên trời vang rền, |
Tiếng sấm, mây giông tố, |
523. |
Khi trên những bờ sông, |
Những vòng hoa rừng núi, |
524. |
Khi nửa đêm, rừng vắng, |
Trời đổ trận mưa rào, |
525. |
Khi tầm tứ chế ngự, |
Giữa núi, trong hang động, |
526. |
Khi ngồi được hỷ lạc, |
Không uế chướng, không sầu, |
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.