Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

ĐẠI DIỄN GIẢI (MAHĀNIDDESAPĀḶI)

 

TRÍCH LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ

 

Niddesa là tựa đề của tập kinh thứ 11 trong 15 tập[1] thuộc Khuddakanikāya (Tiểu bộ) - bộ thứ năm của Suttantapiṭaka (tạng Kinh) sau Dīghanikāya (Trường bộ), Majjhimanikāya (Trung bộ), Saṃyuttanikāya (Tương ưng bộ) và Aṅguttaranikāya (Tăng chi bộ). Việc xác định Khuddakanikāya gồm có 15 tập (pannarasappabhedo khuddakanikāyo) được căn cứ vào một số văn bản Chú giải do công soạn thảo của Ngài Buddhaghosa với thứ tự như được trình bày dưới đây:

1. Khuddakapāṭha (Tiểu tụng)

2. Dhammapada (Pháp cú)

3. Udāna (Phật tự thuyết)

4. Itivuttaka (Phật thuyết như vậy)

5. Suttanipāta (Kinh tập)

6. Vimānavatthu (Chuyện Thiên cung)

7. Petavatthu (Chuyện Ngạ quỷ)

8. Theragāthā (Trưởng lão kệ)

9. Therīgāthā (Trưởng lão Ni kệ)

10. Jātaka (Bổn sanh)

11. Niddesa (Diễn giải)

12. Paṭisambhidāmagga (Phân tích đạo)

13. Apadāna (Thánh nhân ký sự)

14. Buddhavaṃsa (Phật sử)

15. Cariyāpiṭaka (Hạnh tạng)[2]

Niddesa là danh từ nam tánh, có ý nghĩa là “sự chỉ ra, sự phân tích” và được phát xuất từ động từ niddisati (ni+√dis+a) có ý nghĩa là “chỉ ra, giải ra, định rõ.” Chúng tôi chọn tựa đề tiếng Việt cho tập Kinh Niddesa là “Diễn giải.Kinh Niddesa được trình bày thành 2 cuốn: Mahāniddesa (Đại diễn giải) và Cullaniddesa / Cūḷaniddesa (Tiểu diễn giải). Từ Pāḷi được gắn thêm sau mỗi tựa đề MahāniddesapāḷiCullaniddesapāḷi, để khẳng định rằng văn bản này thuộc về Chánh tạng của Tam tạng (Tipiṭaka). Theo quan điểm cá nhân, chúng tôi hiểu rằng hai tính từ “mahā” và “culla” (hoặc “cūḷa” do sự khác biệt về cách phát âm) được thêm vào trước tựa đề của các tập sách hoặc bài kinh có thể hiểu theo nghĩa “đại” và “tiểu” (lớn và nhỏ), hoặc “thượng” và “hạ” (trên và dưới), hay đơn giản hơn chỉ là “tập 1” và “tập 2” (trước và sau). Nội dung MahāniddesapāḷiCullaniddesapāḷi được ghi nhận như sau:

- Mahāniddesapāḷi giải thích về 210 câu kệ (gāthā) của 16 bài kinh (sutta) thuộc Aṭṭhakavagga (Phẩm Nhóm tám) của tập Suttanipātapāḷi (Kinh tập) thuộc Tiểu bộ, tạng Kinh.

- Cullaniddesapāḷi giải thích về 119 câu kệ thuộc Pārāyanavagga (Phẩm Đường đi đến bờ kia), cộng thêm vào 41 câu kệ của bài Khaggavisāṇasutta (Kinh Sừng tê ngưu) thuộc Uragavagga (Phẩm Rắn) cũng của tập Suttanipātapāḷi thuộc Tiểu bộ, tạng Kinh.

Tác giả của Niddesa được ghi nhận là Ngài Sāriputta, vị Thượng thủ Thinh văn của đức Phật. Điều này được thấy ghi lại ở phần mở đầu (ganthārambhakathā) của tài liệu Chú giải Saddhammapajjotikā của tập kinh này.[3] Phần cuối của tập sách cho biết: Chú giải này[4] còn có tên gọi khác nữa là Niddesavaṇṇanā và đã được thực hiện bởi vị Đại Trưởng lão Upasena lúc vị ấy cư ngụ ở một gian phòng được xây dựng bởi Kittisena tại phía Tây của Mahāthūpa thuộc Mahāvihāra (Đại tự), ở khu vực phía Nam của kinh thành Anurādhapura vào năm thứ 26 thuộc triều đại của đức Vua Sirinivāsa Sirisaṅghabodhi.[5] Cũng có thể gọi tập Chú giải này với tên Niddesa-aṭṭhakathā, hoặc có thể gọi theo tên gọi riêng của từng tập là Mahāniddesa-aṭṭhakathāCullaniddesa-aṭṭhakathā theo sự phân chia thành hai tập như đã được đề cập ở trên.

Về thời điểm của tập Niddesa như đã được xác định bởi vị Đại Trưởng lão Upasena, tác giả của tài liệu Chú giải Saddhammapajjotikā, thì tập này đã có từ thời đức Phật còn tại tiền. Căn cứ vào những chứng cứ cụ thể qua văn tự được báo hiệu bởi cụm từ: “Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā” (bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói đến) và không có ghi thêm xuất xứ nào khác, chúng ta có thể đưa ra nhận xét rằng tập Niddesa được hình thành rất sớm, lúc lời dạy đức Phật đã được lưu truyền trong chúng đệ tử của Ngài, nhưng còn chưa được phân chia thành Tam tạng như cách trình bày hiện tại. Ngày nay, chúng ta có thể sử dụng máy vi tính để tìm thấy những trích dẫn ấy ở các văn bản Pāḷi thuộc tạng Kinh như là: Dīghanikāya, Majjhimanikāya, Saṃyuttanikāya, Aṅguttaranikāya, và các tập kinh thuộc Khuddakanikāya như là: Dhammapada, Jātaka, Udāna, Itivuttaka, Theragāthā, v.v... Bên cạnh đó, còn có một số câu trích dẫn được tìm thấy ở tạng Abhidhamma (Vi diệu pháp) nữa. Một yếu tố về thời gian khác nữa là Chú giải Samantapāsādikā về tạng Luật có ghi lại câu chuyện rằng: Có một thời kỳ chỉ còn lại chỉ một vị thuộc lòng tập Niddesa,[6] và điều này làm tiền đề cho việc kết tập Tam tạng lần thứ IV tại Sri Lanka, rồi được ghi xuống bằng chữ viết trên lá buông vào thế kỷ I TTL. Như vậy, có thể kết luận rằng tập Kinh Niddesa vốn đã được lưu truyền trước thời kỳ kết tập ấy.

Xét về thể loại, Giáo sư Oliver Abeynayake nhận xét ở sách A Textual and Historical Analysis of the Khuddaka Nikāya như sau: “Niddesa được xếp vào thể loại Sutta trong chín thể loại (navaṅga) bởi Chú giải sư Buddhaghosa. Ở tập Chú giải của Nettipakaraṇa, Chú giải sư Dhammapāla công nhận quan điểm của Ngài Buddhaghosa. Về vấn đề này, vị Upasena, tác giả của tập Chú giải Niddesa có quan điểm khác biệt. Vị ấy có ý kiến là Niddesa nên được xếp vào thể loại GāthāVeyyākaraṇa (gāthāveyyākaraṇaṅgaddvaya saṅgahīto). Điều đáng lưu ý ở đây là ý kiến của vị Upasena đã bị phê phán ở Sāratthadīpanī (Sớ giải của Chú giải Samantapāsādikā) được viết bởi vị Sāriputta ở thời kỳ Polonnaruwa (thế kỷ XII). Tác giả của Sāratthadīpanī có vẻ tán thành quan điểm của Buddhaghosa và Dhammapāla, mặc dầu vị ấy thừa nhận việc sắp xếp Niddesa vào thể loại Veyyākaraṇa là hợp lý, dựa trên nền tảng là các câu hỏi và các câu trả lời (pucchāvissajjanā) được tìm thấy ở Niddesa. Vị ấy hướng sự chú ý của chúng ta đến câu hỏi là Niddesa có nên hay không nên được xếp vào thể loại Gāthā. Phần trình bày ở Sāratthadīpanī dẫu sao cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc trình bày về sự tranh luận phổ biến có tính chất truyền thống liên quan đến tập Niddesa của chúng ta” (160-161).

Về nội dung, Niddesa được xem là một tài liệu chú giải cổ. Cách thức giải thích của Niddesa có nhiều khác biệt so với các văn bản chú giải của các Chú giải sư Buddhadatta, Buddhaghosa, Dhammapāla, v.v... từ thế kỷ V Tây lịch trở về sau. Cách thức giải thích được thấy ở Niddesa thường là một danh sách dài các từ đồng nghĩa, và sự giải thích như vậy được lặp lại mỗi khi từ cần giải thích xuất hiện. Một điểm được ghi nhận khác nữa là Niddesa chú trọng đến việc giải thích từng từ, nhóm từ hoặc một phần của kệ ngôn; qua việc làm đó, ý nghĩa của câu kệ được phô bày, chứ không có phần giải thích ý nghĩa tổng thể của toàn bộ câu kệ. Nhiều chỗ, việc giải thích được thực hiện bằng cách trích dẫn các lời dạy của đức Phật. Niddesa cũng không trình bày các giai thoại, các tích truyện có liên quan đến vấn đề đang được giải thích. Các thuật ngữ về văn phạm không được tìm thấy, nhưng lại có định nghĩa của một số từ vựng, ví dụ như: iti, addha, āyasmā, na, v.v... Hoặc một số thuật ngữ hầu như chỉ có riêng ở Niddesa mà không thấy ở các tập kinh khác, ví dụ như việc phân tích và giải nghĩa về 6 hạng Muni: Agāramuni (Hiền trí tại gia), Anagāramuni (Hiền trí xuất gia), Sekhamuni (Hiền trí Hữu học), Asekhamuni (Hiền trí Vô học), Paccekamuni (Hiền trí Độc giác), Munimuni (Hiền trí của các bậc Hiền trí, Hiền trí Toàn Giác); 2 loại kāma (dục): vatthukāma (vật dục) và kilesakāma (ô nhiễm dục); 5 loại con mắt đã được khai mở (vivaṭacakkhu) của đức Phật: maṃsacakkhu (nhục nhãn), dibbacakkhu (thiên nhãn), paññācakkhu (tuệ nhãn), Buddhacakkhu (Phật nhãn), samantacakkhu (toàn nhãn), v.v... Tuy nội dung của Niddesa có tính chất chú giải, nhưng vẫn là văn bản được xếp vào Tiểu bộ, tạng Kinh, thuộc Chánh tạng như đã được ghi lại bởi Chú giải sư Buddhaghosa.

Nội dung của tập thứ nhất, Mahāniddesapāḷi, được chia thành 16 phần dựa theo 16 bài kinh (sutta) ở văn bản gốc (Suttanipātapāḷi, Kinh tập) cụ thể như sau:

1. Kāmasuttaniddeso (Diễn giải kinh về dục)

2. Guhaṭṭhakasuttaniddeso (Diễn giải kinh nhóm tám về hang)

3. Duṭṭhaṭṭhakasuttaniddeso (Diễn giải kinh nhóm tám về xấu xa)

4. Suddhaṭṭhakasuttaniddeso (Diễn giải kinh nhóm tám về trong sạch)

5. Paramaṭṭhakasuttaniddeso (Diễn giải kinh nhóm tám về tối thắng)

6. Jarāsuttaniddeso (Diễn giải kinh về sự già)

7. Tissametteyyasuttaniddeso (Diễn giải kinh về Tissametteyya)

8. Pasūrasuttaniddeso (Diễn giải kinh về Pasūra)

9. Māgandiyasuttaniddeso (Diễn giải kinh về Māgandiya)

10. Purābhedasuttaniddeso (Diễn giải kinh trước khi hoại rã)

11. Kalahavivādasuttaniddeso (Diễn giải kinh cãi cọ và tranh cãi)

12. Cūlaviyūhasuttaniddeso (Diễn giải kinh sự dàn trận nhỏ)

13. Mahāviyūhasuttaniddeso (Diễn giải kinh sự dàn trận lớn)

14. Tuvaṭakasuttaniddeso (Diễn giải kinh một cách nhanh chóng)

15. Attadaṇḍasuttaniddeso (Diễn giải kinh uế hạnh của bản thân)

16. Sāriputtasuttaniddeso (Diễn giải kinh về Sāriputta)

Các kệ ngôn trong tổng số 210 kệ ngôn của 16 phần trên được giải thích tuần tự đúng theo thứ tự ở tập Suttanipātapāḷi và được trình bày theo chữ nghiêng hay tô đậm để tiện việc phân biệt.

Một cách tóm tắt, tập Mahāniddesapāḷi giúp cho người học Phật củng cố về mặt tri kiến, cũng như về lãnh vực tu tập với lời giải thích chi tiết phần giáo lý về các dục và sự đắm nhiễm tham ái của bản thân, từ đó dẫn đến các trạng thái ô nhiễm và chấp thủ tà kiến khiến con người không nắm được bản thể thật của thế gian, sanh-già-bệnh-chết, rồi lao vào các cuộc tranh cãi, sanh khởi ngã mạn, chìm đắm vào trạng thái mê muội và xa lìa sự giác ngộ.

Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt của các kệ ngôn bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc. Trong phần nhiều các trường hợp, hai dòng kệ ngôn gồm bốn pāda là được hoàn chỉnh về ý nghĩa. Nhưng có một vài trường hợp, ý nghĩa được nối từ kệ ngôn này sang kệ ngôn khác, thì chúng tôi dịch gom chung các kệ ngôn có liên quan lại với nhau. Trong trường hợp một số các kệ ngôn Pāḷi gồm 3 hoặc 4 dòng có ý nghĩa được tách biệt theo từng dòng một, chúng tôi ngắt câu dịch Việt thành từng dòng riêng biệt tương ứng với từng câu Pāḷi để tiện việc đối chiếu, so sánh, tìm hiểu và học hỏi.

Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này, đồng thời tạo sự thuận tiện cho công việc hiệu đính trong tương lai. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ có hạn.

Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập kinh này được thành tựu đến Thầy Tổ, song thân và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.

Kính bút,

Ngày 16 tháng 4 năm 2018

Tỳ-khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)

 

Chú thích:

[1] Tiểu bộ thuộc Tam tạng Thánh điển PGVN có 16 tập. (BBT)

[2] DA. I. 17; VinA. I. 18; DhsA. 18.

[3] MNidA. I. 1.

[4] CNidA. 151.

[5] Vị vua này được xác định là Aggabodhi (564-598) (Encyclopaedia of Buddhism, vol. VII, The Department of Buddhist Affairs, Ministry of Buddhasāsana, Sri Lanka, 2003, trang 170).

[6] VinA. III. 695.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.