Viện Nghiên Cứu Phật Học

17. PHẦN TƯỜNG THUẬT VỀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN BỜ KIA (Pārāyanānugīti)

 

Đức Thế Tôn đã nói điều này trong lúc cư ngụ ở xứ sở Magadha tại bảo điện Pāsāṇaka. Được thỉnh cầu bởi mười sáu vị Bà-la-môn tùy tùng, Ngài đã giải đáp câu hỏi mỗi khi được hỏi. Nếu đối với từng câu hỏi một, sau khi hiểu thông ý nghĩa, sau khi hiểu thông giáo pháp thì có thể thực hành đúng pháp và thuận pháp, và còn có thể đi đến bờ kia của già và chết. Các pháp này là sẽ đi đến bờ kia, vì thế, tên gọi của bài giảng pháp này là Đường đi đến bờ kia.

1. Vị Ajita, vị Tissametteyya, vị Puṇṇaka, rồi vị Mettagū, vị Dhotaka và vị Upasīva, vị Nanda, rồi vị Hemaka.

2. Cả hai vị là vị Todeyya với vị Kappa và vị sáng suốt Jatukaṇṇī, vị Bhadrāvudha và vị Udaya, luôn cả Bà-la-môn Posāla, vị thông minh Mogharāja và vị Đại Ẩn sĩ Piṅgiya.

3. Những vị này đã đi đến gặp đức Phật, bậc Ẩn Sĩ có đức hạnh đầy đủ. Trong khi hỏi các câu hỏi vi tế, họ đã đến gần đức Phật tối thượng.

4. Được hỏi những câu hỏi, đức Phật đã giải đáp cho các vị ấy đúng theo sự thật. Với việc giải đáp các câu hỏi, bậc Hiền Trí đã làm hài lòng các vị Bà-la-môn.

5. Các vị ấy, được hài lòng với bậc Hữu Nhãn, đức Phật, đấng Quyến Thuộc Của Mặt Trời, đã thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của bậc có tuệ cao quý.

6. Theo như điều đã được chỉ bảo bởi đức Phật đối với từng câu hỏi một, người nào thực hành theo như thế thì có thể từ bờ bên này đi đến bờ kia.

7. Người tu tập đạo lộ tối thượng có thể từ bờ bên này đi đến bờ kia. Đạo lộ ấy đưa đến việc đi đến bờ kia, vì thế gọi là Đường đi đến bờ kia.

8. [Tôn giả Piṅgiya nói rằng:] “Tôi sẽ tường thuật Kinh Đường đi đến bờ kia.[1] Bậc không có vết nhơ, có sự thông minh bao la, không còn dục, đã ra khỏi rừng [ô nhiễm]; bậc Long Tượng đã thấy như thế nào, Ngài đã nói ra như thế ấy. Nguyên nhân của việc gì khiến Ngài lại nói lời dối trá?

9. Giờ đây tôi sẽ thuật lại lời nói đức độ của bậc đã dứt bỏ vết nhơ và si mê, của bậc có sự dứt bỏ ngã mạn và gièm pha.

10.          Đức Phật, đấng Toàn Nhãn, bậc xóa tan sự tăm tối,

              Vị đã đi đến tận cùng thế giới, đã vượt mọi hữu,

              Không còn lậu hoặc, đã dứt bỏ tất cả khổ,

              Vị xứng đáng có danh xưng đã được tôi hầu cận, thưa vị Bà-la-môn.

11.          Giống như loài lưỡng sanh, sau khi lìa bỏ khu rừng cây nhỏ,

              Có thể sống ở khu rừng có nhiều trái cây,

              Cũng như vậy, sau khi lìa bỏ người có tầm nhìn nhỏ nhoi,

              Tôi tựa như con chim thiên nga đã đạt đến biển lớn.

12.          Những người nào trước đây đã giải đáp cho tôi

              Khác với lời dạy của đức Gotama [nói rằng]:

              ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy’,

              Mọi điều ấy đều do nghe lời đồn đãi,

              Mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng của suy nghĩ.

13.          Vị xóa tan sự tăm tối, một mình, đang ngồi,

              Có sự sáng chói, bậc tạo ra ánh sáng ấy

              Là vị Gotama có sự hiểu biết bao la,

              Là vị Gotama có sự thông minh bao la.

14.          Vị ấy đã thuyết giảng cho tôi giáo pháp,

              Có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian,

              Có sự diệt trừ tham ái, không có tai họa.

              Đối với pháp [Niết-bàn] ấy, không có điều tương đương ở bất cứ đâu.”

15.          “Tại sao ngươi lại sống xa lìa vị ấy,

              Vị Gotama có sự hiểu biết bao la,

              Vị Gotama có sự thông minh bao la,

              Dầu chỉ trong chốc lát, này Piṅgiya?

16.          Vị ấy đã thuyết giảng cho ngươi giáo pháp

              Có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian,

              Có sự diệt trừ tham ái, không có tai họa.

              Đối với pháp [Niết-bàn] ấy, không có điều tương đương ở bất cứ đâu.”

17.          “Tôi không sống xa lìa vị ấy,

              Vị Gotama có sự hiểu biết bao la,

              Vị Gotama có sự thông minh bao la,

              Dầu chỉ trong chốc lát, thưa vị Bà-la-môn.

18.          Vị ấy đã thuyết giảng cho tôi giáo pháp,

              Có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian,

              Có sự diệt trừ tham ái, không có tai họa.

              Đối với pháp [Niết-bàn] ấy, không có điều tương đương ở bất cứ đâu.

19.          Tôi nhìn thấy Ngài ấy bằng ý hoặc bằng mắt,

              Ban đêm và ban ngày, thưa vị Bà-la-môn, không bị xao lãng.

              Trong khi kính lễ [đến Ngài], tôi sống qua đêm,

              Chính bằng cách ấy, tôi nghĩ là sống không xa lìa.

20.          Tín, hỷ, tâm ý và niệm

              Của tôi không lìa xa lời giảng dạy của đức Gotama.

              Mỗi phương hướng nào bậc có tuệ bao la di chuyển đến,

              Tôi đây đều kính lễ theo chính mỗi phương hướng ấy.

21.          Đối với tôi, là người đã già nua, có thể lực và sức mạnh kém cỏi,

              Chính vì thế, thân xác của tôi không theo đến được nơi ấy.

              Tôi thường đi đến bằng cách hướng tâm,

              Thưa vị Bà-la-môn, bởi vì ý của tôi đã được gắn bó với Ngài ấy.

22.          Trong khi nằm ở đám bùn [ngũ dục], đang chao đảo,

              Tôi đã bơi từ hòn đảo này đến hòn đảo khác.

              Rồi tôi đã nhìn thấy đức Phật Toàn Giác,

              Vị đã vượt qua dòng lũ, không còn lậu hoặc.”

23. “Giống như Vakkali có đức tin đã được cởi trói, Bhadrāvudha và Āḷavigotama [cũng thế], tương tự y như vậy, ngươi cũng hãy giải thoát bằng đức tin. Này Piṅgiya, ngươi sẽ đi đến bờ kia đối với lãnh địa của thần chết.”[2]

24. “Sau khi lắng nghe lời nói của bậc Hiền Trí, con đây càng thêm tịnh tín. Ngài là đức Phật Toàn Giác có màn che đã được cuốn lên, không còn sự cứng cỏi [của tâm], có tài biện giải.

25. Sau khi biết rõ chư thiên bậc thượng, Ngài đã hiểu biết tất cả từ thấp đến cao. Bậc Đạo sư là vị giải quyết dứt điểm các câu hỏi của những người có sự nghi ngờ đang bày tỏ [với Ngài].

26. Đương nhiên, con sẽ đi đến trạng thái [Niết-bàn] không bị chuyển dịch, không bị lay động, không có pháp tương đương đối với Niết-bàn ở bất cứ đâu. Con không có sự nghi ngờ về nơi này. Xin Ngài hãy ghi nhận con là người có tâm đã được hướng đến như vậy.”

Phẩm “Đường đi đến bờ kia” được chấm dứt.

 

Chú thích:

[1] Vào thời điểm này, đức Phật đang ngự tại thành Sāvatthi. Biết được sự chín muồi về khả năng của Piṅgiya và Bāvari, Ngài đã phóng ra hào quang có màu sắc vàng chói. Piṅgiya, ngay trong lúc đang ngồi tán dương ân đức của Phật cho Bāvari, đã nhìn thấy hào quang ấy. Trong lúc đang xem xét “cái gì đây?” Piṅgiya nhìn thấy đức Thế Tôn như đang đứng trước mặt. Piṅgiya đã bảo vị Bà-la-môn Bāvari rằng: “Đức Phật đã ngự đến.” Bà-la-môn Bāvari đã từ chỗ ngồi chắp tay lên và đứng dậy. Đức Thế Tôn sau khi phóng ra hào quang đã hiện thân cho vị Bà-la-môn thấy. Sau khi thấy thời điểm phù hợp cho cả hai vị, trong lúc chỉ dạy riêng cho Piṅgiya, Ngài đã nói lên kệ ngôn này (SnA. II. 606).

[2] Lúc này, Bà-la-môn Piṅgiya đã chứng quả Bất lai, trở về thuật lại bài Kinh Đi đến bờ kia cho vị thầy trước đây là Bà-la-môn Bāvari (SnA. II. 603-05).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.