Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// V. THIÊN ĐẠI/ 47. TƯƠNG ƯNG NIỆM XỨ/ II. PHẨM NĀḶANDĀ

III. KINH CUNDA (Cundasutta)24 (S. V. 161)
379. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthi, tại Thắng Lâm, khu vườn của ông Cấp Cô Độc.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta trú ở Magadha, tại làng Nāla, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Và Sa-di Cunda là thị giả của Tôn giả Sāriputta.
Tôn giả nhập Niết-bàn vì bệnh ấy.
Rồi Sa-di Cunda cầm lấy y bát của Tôn giả Sāriputta đi đến Sāvatthi, Thắng Lâm, tại khu vườn của ông Cấp Cô Độc, đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Sa-di Cunda nói với Tôn giả Ānanda:
– Bạch Thượng tọa, Tôn giả Sāriputta đã mệnh chung. Đây là y bát của vị ấy.25
– Này Hiền giả Cunda, đây là lý do26 để đến yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, chúng ta hãy báo tin này cho Thế Tôn.
– Thưa vâng, Thượng tọa.
Sa-di Cunda vâng đáp Tôn giả Ānanda.
Rồi Tôn giả Ānanda và Sa-di Cunda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Sa-di Cunda này thưa như sau: “Bạch Thượng tọa, Tôn giả Sāriputta đã mệnh chung. Đây là y và bát của vị ấy.” Bạch Thế Tôn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy [bàng hoàng] (madhurakajāto). Các phương hướng không hiện ra rõ ràng đối với con. Pháp sẽ không được giảng cho con, khi con nghe tin Tôn giả Sāriputta đã mệnh chung.
– Này Ānanda, Sāriputta có đem theo giới uẩn khi mệnh chung; có đem theo định uẩn khi mệnh chung; có đem theo tuệ uẩn khi mệnh chung; có đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung; có đem theo giải thoát tri kiến uẩn khi mệnh chung không?
– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sāriputta không đem theo giới uẩn khi mệnh chung, không đem theo định uẩn khi mệnh chung, không đem theo tuệ uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải thoát tri kiến uẩn khi mệnh chung. Nhưng bạch Thế Tôn, Tôn giả Sāriputta là vị giáo giới cho con, là vị đã vượt qua [bộc lưu],27 là bậc Giáo thọ; là vị khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ; là vị thuyết pháp không biết mệt mỏi; là vị hộ trì cho các đồng Phạm hạnh. Chúng con đều ức niệm rằng, Tôn giả Sāriputta là tinh ba của pháp (dhammojaṃ), là tài sản của pháp (dhammabhogaṃ), là hộ trì của pháp.
– Này Ānanda, có phải trước đây Ta đã từng tuyên bố với ông rằng mọi pháp khả ái, khả ý đều có tánh chất khác biệt, có tánh chất ly tán, có tánh chất đổi khác? Làm sao, này Ānanda, ở đây, lời ước nguyện này có thể thành tựu được: “Mong rằng cái gì được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại”? Sự kiện như vậy không xảy ra.
Ví như, này Ānanda, từ một cây lớn mọc thẳng, có lõi cây, một cành cây lớn bị gãy đổ. Cũng vậy, này Ānanda, từ nơi chúng Tỷ-kheo đứng thẳng, có lõi cây, Sāriputta bị mệnh chung. Làm sao, này Ānanda, ở đây, lời ước nguyện này có thể thành tựu được: “Mong rằng cái gì được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại”? Sự kiện như vậy không xảy ra.
Do vậy, này Ānanda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác; dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác. Này Ānanda, thế nào là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác?
Ở đây, này Ānanda, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác.
Này Ānanda, những ai hiện nay, hay sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác; những vị ấy, này Ānanda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.

Tham chiếu:
24 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.638. 0176b28); Tăng. 增 (T.02. 0125.26.9. 0639a12).
25 SA. III. 221 viết idaṃ dhātuparissāvana, tức là cái đãy có đựng Xá-lợi của Tôn giả Sāriputta.
26 SA. III. 221: Kathāpābhataṃ = Kathāmūlaṃ, nghĩa là chủ đề cuộc nói chuyện.
27 UdA. 23: Otiṇṇavatthukaṃ puggalaṃ, nghĩa là người đến được chỗ đất cứng chắc.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.