Tam tạng Thánh điển PGVN 03 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 03 »
Kinh Tương Ưng Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// IV. THIÊN SÁU XỨ/ 35. TƯƠNG ƯNG SÁU XỨ/ PHẦN HAI: NĂM MƯƠI KINH THỨ HAI/ X. PHẨM TỪ BỎ
X. KINH UDDAKA (Udakasutta) (S. IV. 83)
103. Uddaka Rāmaputta,49 này các Tỷ-kheo, có nói như sau:
Ta là bậc minh trí,50
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào.
Này các Tỷ-kheo, Uddaka Rāmaputta không phải bậc minh trí, lại tự nói: “Ta là bậc minh trí”; không chiến thắng tất cả, lại nói: “Ta chiến thắng tất cả”; không đào lên khổ căn, lại nói: “Đã đào lên khổ căn.”
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một cách chân chánh, có thể nói như sau:
Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo minh trí (vedagū)? Này các Tỷ- kheo, khi nào một Tỷ-kheo đối với sáu xúc xứ, như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly; như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo minh trí.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo chiến thắng tất cả? Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đối với sáu xúc xứ, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly, được giải thoát không có chấp thủ; như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chiến thắng tất cả.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã đào lên khổ căn trước kia chưa được đào? Mụt nhọt,51 này các Tỷ-kheo, là một danh từ chỉ cho cái thân do bốn đại tạo thành này, sanh ra từ cha mẹ, do cơm cháo nuôi dưỡng, tự tánh là vô thường, biến hoại, mai một, hủy hoại, hủy diệt. Gốc rễ của mụt nhọt, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với khát ái. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đoạn tận khát ái, chặt đứt đến gốc rễ, làm cho như thân cây Sa-la, làm cho không thể tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai; như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đã đào lên khổ căn từ trước chưa được đào lên.
Này các Tỷ-kheo, chính là Uddaka Rāmaputta đã nói lên lời nói như sau:
Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào.
Này các Tỷ-kheo, Uddaka không phải là bậc minh trí, lại tự nói: “Ta là bậc minh trí”; không chiến thắng tất cả, lại nói: “Ta chiến thắng tất cả”; không đào lên khổ căn, lại nói: “Đã đào lên khổ căn.”
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một cách chân chánh, có thể nói như sau:
Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào.
Tham chiếu:
49 Xem M. I. 165.
50 SA. II. 386: Jātu vedagūti ahaṃ ekaṃseneva vedagū, vedasaṅkhātena ñāṇena neyyesu gato, vedaṃ vā gato adhigato, paṇḍitohamasmīti attho (không nghi ngờ gì nữa, ta chắc chắn là bậc minh triết, người đã thành tựu trí tuệ, hiểu biết mọi điều bằng trí tuệ, và như vậy ta là bậc trí).
51 SA. II. 386: Gaṇḍamūlaṃ = Dukkhamūlaṃ (gốc rễ mụn nhọt, gốc rễ khổ đau).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.