Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// IV. THIÊN SÁU XỨ/ 35. TƯƠNG ƯNG SÁU XỨ/ PHẦN HAI: NĂM MƯƠI KINH THỨ HAI/ VII. PHẨM MIGAJĀLA

II. KINH MIGAJĀLA THỨ HAI (Dutiyamigajālasutta) (S. IV. 37)
64. Rồi Tôn giả Migajāla đi đến Thế Tôn...
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Migajāla bạch Thế Tôn:
– Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp ấy con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
– Này Migajāla, có những sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương, sống với tâm tham luyến sắc ấy; do vị ấy hoan hỷ, tán dương, sống với tâm tham luyến sắc ấy nên hỷ sanh. Này Migajāla, Ta nói rằng do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi.
… tiếng... hương... vị... xúc...
Này Migajāla, có những pháp do ý nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương, sống với tâm tham luyến pháp ấy; do vị ấy hoan hỷ, tán dương sống với tâm tham luyến pháp ấy nên hỷ sanh. Này Migajāla, Ta nói rằng do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi.
Này Migajāla, có những sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không tham luyến sắc ấy; do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không tham luyến sắc ấy nên hỷ diệt. Này Migajāla, Ta nói rằng do hoan hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn diệt.
... tiếng... hương... vị... xúc...
Này Migajāla, có những pháp do ý nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không tham luyến pháp ấy; do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không tham luyến pháp ấy nên hỷ diệt. Này Migajāla, Ta nói rằng do hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn diệt.
Rồi Tôn giả Migajāla, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Rồi Tôn giả Migajāla sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu đạt được mục đích mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chính là Vô thượng cứu cánh của Phạm hạnh, ngay trong hiện tại với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết rõ rằng: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.”
Và Tôn giả Migajāla trở thành một vị A-la-hán nữa.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.